TRANG CHỦ | Thứ 6, ngày 26/04/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Virus gây bệnh sốt vàng được xếp vào họ Flaviviridae, nhóm IV (+)ssRNA, giống Flavivirus và loài là Yellow fever virus, vỏ RNA, chứa khoảng 11.000 nucleotide dài và có một khung đơn mã hóa cho một polyprotein. Các proteases vật chủ cắt polyprotein này thành 3 protein cấu trúc (C, prM, E) và 7 protein không cấu trúc (NS1, NS2A, NS2B, NS3, NS4A, NS4B, NS5). Bộ gen của chúng cũng đã được giải mã. Khi nhiễm, virus sẽ đi vào các tế bào monocytes, macrophages và dendritic cells. Chúng kết dính với bề mặt tế bào thông qua các receptor đặc hiệu và nhờ một túi nội mô. Bên trong endosome, pH giảm sinh ra cầu nối màng và vỏ virus. Do đó, capsid tịnh đến cytosol, phá hủy và ly giải bộ gen. Các receptor gắn kết với các màng hợp nhất được xúc tác bởi protein E, điều này làm thay đổi hình thể của chúng ở độ pH thấp, gây ra một cơ chế tái sắp xếp của 90 homodimers thành 60 homotrimers. Sau khi đi vào tế bào vật chủ, bộ gen của virus sao chép lên trong thể ER đỏ và gọi là các túi dịch. Trước tiên, thể chưa trưởng thành là các hạt của virus sinh ra bên trong của thể ER đỏ, ở đó M-protein chưa phân cắt thành thể trưởng thành và do vậy nó được xem là prM (precursor M) và thể phức hợp với protein E. các hạt chưa trưởng thành tiến đến bộ Golgi nhờ protein furin, ròi phân cắt prM thành M. Điều này ly giải E từ phức hợp và có thể hình thành nên thể trưởng thành vào lúc này, xem đó là các virion nhiễm. Muỗi trưởng thành gây sốt vàng da Aedes aegypti. Chỉ có những con muỗi cái mới đốt và truyền bệnh được. Virus lây truyền chủ yếu thông qua vết đốt của Aedes aegypti, nhưng một số muỗi khác cũng có thể là vector của bệnh này. Giống như các nhóm thuộc Arboviruses cũng lây truyền bệnh qua trung gian muỗi. Muỗi hút máu từ một người nhiễm bệnh, víu đi đến dạ dày muỗi và khi nồng độ đủ cao thì các virion có thể nhiễm vào các tế bào biểu mô và sao chép tại đó. Từ đây chúng đi đến haemocoel (hệ máu của muỗi) và vào tuyến nước bọt. Khi muỗi hút máu ở lần tiếp theo, chúng sẽ đẩy nước bọt vào trong vết thương và cứ thế virus sẽ đi theo đến dòng máu của người bị đốt. Chúng cũng có thể lây truyền theo chiều dọc bên trong muỗi A. aegypti, chẳng hạn chúng lan truyền từ muỗi cái sang trứng của chúng và rối sang ấu trùng, nhiễm trùng kiểu này không liên quan đến bữa ăn máu trước đó. Về mặt dịch tễ học, có các phương thức lan truyền khác nhau như đã đề cập ở trên. Ngoài chu kỳ đô thị ở trên, cả châu Phi và Nam Mỹ, nơi có chu kỳ rừng nhiệt đới có muỗi Aedes africanus (ở châu Phi) hoặc muỗi thuộc giống Haemagoggus và Sabethes (ở nam Mỹ) đóng vai trò như một vector. Cơ chế bệnh sinhSau khi lây truyền virus từ muỗi, virus cứ thế sao chép trong hạch lympho và nhiễm vào trong các tế bào hình cây (dendritic cells). Từ đây, chúng đi đến các tế bào gan và phá hủy tế bào gan thong qua xâm nhập vào các tế bào Kupffer, điều này dẫn đến giáng cấp bạch cầu ái toan của các tế bào và ly giải các cytokine. Khối hoại tử (Councilman bodies) dường như xảy ra trong bào tương của các tế bào gan. Khi bệnh xảy ra thì có thể dẫn đến trụy tim mạch, suy đa phủ tạng và tăng dòng cytokine (gọi là cơn bão cytokines_cytokine storm).
Diễn biến và biểu hiện lâm sàng của bệnh sốt vàng -Giai đoạn ủ bệnh khoảng từ 3-6 ngày, sau đó tiếp đến giai đoạn khởi phát bệnh và toàn phát với các triệu chứng nặng. Hầu hết các ca đều thể nhẹ với các triệu chứng sốt, nhức đầu, rét run, đau lưng, chán ăn, nôn và buồn nôn. Trong các cac bệnh này nhiễm trùng thường kéo dài 3-5 ngày. 15% số ca đi vào giai đọa 2 của bệnh là pha nhiễm độc với sốt tái phát đi kèm vàng da và tổn thương gan, đau bụng cấp. Chảy máu miệng, mắt và xuất huyết tiêu hóa, gọi là “vómito negro", pha độc có thể tử vong này chiếm khoảng 20% số ca. -Khởi phát: bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện nhiễm độc, tương ứng với giai đoạn nhiễm virus trong máu, bệnh thường bắt đầu bằng cơn rét run, sốt cao 39-400C trong 3-4 ngày đầu, mạch nhanh, nhức đầu nhiều, đau vùng thượng vị, đau mỏi cơ lưng và hai chi dưới. Có thể bệnh nhân bị kích thích mạnh, lo lắng, vật vã, sợ ánh sáng, đôi khi mê sảng, mặt đỏ ửng, kết mạc xung huyết nhiều,... -Toàn phát: thường bắt đầu từ ngày thứ 4-5 của bệnh, nhiệt độ giảm trong thời gian ngắn (12-24giờ), sau lại sốt cao trở lại tiếp khoảng 4-5 ngày nữa. Nổi bật là tình trạng sốt cao, xuất huyết kèm theo dấu hiệu hoại tử gan. Bệnh nhân xuất hiện vàng da, xuất huyết nặng (chảy máu cam, lợi răng, xuất huyết tiêu hóa, biểu hiện nôn ra dịch màu đen, đại tiện phân đen...), thiểu hoặc vô niệu. Thường có biểu hiện tri thức u ấm (do viêm não nhiễm độc) Thông số cận lâm sàng -Xét nghiệm công thức máu và sinh hóa máu cho thấy bạch cầu giảm, có thể tăng vào giai đoạn cuối. Men SGOT, SGPT tăng, bilirubin tăng cao, nước tiểu có Bilirubin và Urobilinogen, Protein niệu (+). -Trường hợp nặng có suy thận (Ure, Creatinin máu tăng ). Chẩn đoán bệnhBệnh sốt vàng được chẩn đoán lâm sàng là chính, thường dựa trên các bệnh nhân đang sông trong cùng vùng dịch tễ hay nói đúng hơn là vùng dịch tễ bệnh và nên đề cập đến thời gian ủ bệnh cũng rất quan trọng. Bệnh thể nhẹ có thể xác định bằng chẩn đoán virus học và vì thể nhẹ của sốt vàng có vai trò đặc biệt có ý nghĩa trong lan truyền cũng như bùng phát dịch trong vùng, cần chú ý các điểm sau đây (bệnh có thể khởi phát sau 7-10 ngày từng vùng lưu hành bệnh trở về và các triệu chứng chính là sốt-đau-buồn nôn-nôn mửa). Nếu một ca nghi ngờ sốt vàng, thì chẩn đoán xác định virus có thể xác định đến 6-10 ngày sau bệnh, phương pháp xác định là PCR sao chép ngược hay còn gọi là là RT-PCR vì khi đó bộ gen của virus được khuyeechs đại lên. Cũng có thể phân lập virus và nuôi cấy tế bào sử dụng huyết tương, thời gian thực hiện mất 4 tuần. Chẩn đoán huyết thanh học như ELISA trong pha cấp của bệnh sử dụng kháng thể đặc hiệu IgM hoặc tăng hiệu giá IgG (so sánh với mẫu nhiễm sớm) có thể xác định sốt vàng. Cùng với các triệu chứng sốt vàng thì phát hiện gether with clinical symptoms, IgM hoặc hiệu giá kháng thể IgG tăng gấp 4 lần đủ để chẩn đoán sốt vàng. Vì các test này có phản ứng chéo với các virus thuộc Flaviviruses, như virus Dengue nên cần thận trọng. Sinh thiết gan có thể xác định phản ứng viêm nhiễm và hoại tử các tế bào gan và phát hiện kháng nguyên virus. Vì xuất huyết có xu hướng xảy ra nhiều trên bệnh nhân sốt vàng nên sinh thiết chỉ được chỉ định sau khi đã tử vong (post mortem) để xác định nguyên nhân gây chết. Chẩn đoán phân biệt nên đặt ra với các bệnhcó sốt khác như sốt rét, sốt xuát huyết do virus Ebola virus, Lassa virus, Marburg virus hoặc Junin virus. Thái độ xử trí Điều trị hiện nay không có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là các biện pháp điều trị triệu chứng như điều trị bệnh sốt Dengue hoặc sốt xuất huyết Dengue. Đối với bệnh sốt vàng, cũng như các bệnh lý gây ra bởi các virus nhóm Flaviviruses, đều không chữa khỏi. Nhập việc là lời khuyên tốt nhất và chăm sóc tích cực là cần thiết vì quá trình hủy hoại và hoại tử cơ quan nhanh chóng của loài virus này. Các biện pháp khác điều trị cho bệnh chỉ ra không thành công; tiêm phòng chủ động sau khi xuất hiện triệu chứng rồi vẫn không có hiệu quả. Thuốc Ribavirin và các thuốc chống virus khácvới interferons không có hiệu quả trên bệnh nhân. Điều trị triệu chứng bao gồm bù nước và giảm đau với các thuốc như paracetamol. Acetlysalicylic acid (Aspirin) không nên dùng vì có thể gây xuất huyết thêm, nó có thể gây bùng phát thêm các trường hợ chảy máu trong sẵn có. Phòng bệnh Phòng chống vector Chủ yếu là phòng muỗi đốt và diệt muỗi A. aegypti. Phòng chống vectorl à một khâu rất quan trọng, đặc biệt các loại muỗi truyền bệnh sốt Dengue và Chikungunya. Ae. aegypti. Nếu các chiến lược phòng chống vector hiệu quả như trong sốt xuất huyết thì sốt vàng cũng sẽ giảm đi đáng kể. Pyriproxyfen là một hóa chất khuyến cáo sử dụng diệt ấu trùng vì chúng an toàn cho người và hiệu quả ở liều rất nhỏ. Ngoài ấu trùng, thì các muỗi trưởng thành gây bệnh sốt vàng cũng là đích hướng đến. Phòng bệnh thông qua tiêm vaccine -Dùng vaccine dự phòng cho những người vào vùng có bệnh lưu hành. Sau khi tiêm vaccin, kháng thể xuất hiện sau 10 ngày và tồn tại 10 năm; nếu tiêm nhắc lại có tác dụng 10 năm nữa. Dù chưa có tài liệu nào nói về tác hại của vaccin đối với thai nhi nhưng cũng chỉ nên tiêm vaccin cho phụ nữ có thai khi đã chắc chắn họ bị phơi nhiễm với bệnh. Chỉ tiêm vaccin cho trẻ ≥ 12 tháng tuổi có nguy cơ phơi nhiễm cao; -Vaccine phòng bệnh sốt vàng đã được sử dụng từ những năm 1930 và trên 300 triệu liều vaccine đã triển khai từ thời gian đó. Vaccine hiện dùng là loại Stamaril. Đây là loại vaccine sống giảm độc lực của dòng 17D của virus sốt vàng phát triển trên môi trường phôigà không có leucosis và rất hiệu quả trong phòng bệnh. Vì sản xuất và chế phảm từ phôi gà nên vaccine này không khuyến cáo nếu ai đó dị ứng với trứng; -Một liều duy nhất được tiêm phòng có hiệu quả 100% và miễn dịch tồn tại ít nhất 10 năm và có thể tiêm nhắc lại sau đó, vaccine này tiêm dưới da. Nếu nhập cảnh vào một quốc gia đòi hỏi phải có chứng nhận tiêm vaccine sốt vàng thì người du lịch đó phải có ít nhất thời gian tiêm vaccine trước đó 10 ngày để đủ sau khi tiêm có sinh kháng thể bảo vệ; -Nếu được tiêm các vaccine sống cần thiết cho chuyến du lịch (lao, sởi, quai bị, rubella), thì chúng cũng có thể tiêm trong một ngày rồi hãy chỉ định vaccine này. Ngươc lại, các người du lịch cũng có thể đợi đến 1 tháng sau khi tiêm vaccine sốngrói chỉ định sau cũng được. Vaccine virus sống ức chế hệ thống miễn dịch và sẽ làm giảm tính hiệu quả của vaccine sốt vàng. -Vaccine này không được khuyến cáo tiêm cho những trẻ < 1 tuổi, phụ nữ mang thai hoặc những người đang mắc các vấn đề liên quan đến miễn dịch suy giảm; -Vì nguy cơ mắc bệnh thì rất cao mà vaccine lại hiệu quả và an toàn, nên WHO khuyến cáo tiêm chủng cho những ai đi du lịch nước ngoài đến các vùng nông thôn có lưu hành bệnh. Năm 2009, một lượng lớn vaccine được giới thiệu tại Tây Phi, đặc biệt tại Benin, Liberia và Sierra Leone. Khi chúng hoàn thành vào năm 2015, hơn 12 triệu người sẽ được tiêm loại vaccine này, Theo WHO, tiêm vaccin hàng loạt không thể loại trừ bệnh sốt vàng vì số lượng lớn muỗi bị nhiễm ở đô thị tại các quốc gia khong thể kiểm soát hết, nhưng sẽ làm giảm đáng kể số người nhiễm. Tuy nhiên, WHO có kế hoạch tiếp tục chiến dịch tiêm chủng tác một số nước châu Phi khác là cộng hòa Trung Phi, Ghana, Guinea, Ivory Coast và Nigeria và khoảng 160 triệu người trong lục địa có nguy cơ. Tiêm vaccine bắt buộc, một số quốc gia châu Á, nơi có lưu hành vector về sốt vàng và nhạy cảm, thậm chí bệnh chưa xảy ra. Để phòng bệnh lý virus nghiêm trọng này, một số quốc gia đã chuẩn bị một số lượng vaccine. Tiêm chủng vaccine phải có “chứng nhận đã tiêm vaccine” và có hiệu lực 10 ngày kể từ sau khi tiêm và kéo dài đến 10 năm. Một danh mục các nước đòi hỏi phải tiêm vaccine sốt vàng được đăng tải bởi WHO. Nếu tiêm chủng không thể tiến hành vì một số lý do, có thể miễn thực hiện. 32 trong số 44 quốc gia có sốt vàng lưu hành đã thực hiện tiêm vaccine, tại nhiều quốc gia này có ít hơn 50% dân số được tiêm. Tài liệu tham khảo 1.in Baron S. Medical Microbiology (4th ed.). Univ of 2.Oldstone, Michael B. A. (2000). Viruses, Plagues, and History (1st ed.). 3.Yellow fever fact sheet. WHO-yellow fever. http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs100/en/. Retrieved 2006-04-18. 4.Tolle MA (April 2009). "Mosquito-borne diseases". Curr Probl Pediatr Adolesc Health Care 39 (4): 97–140. doi:. PMID 19327647. 5.Barrett AD, Higgs S (2007). "Yellow fever: a disease that has yet to be conquered". Annu. Rev. Entomol. 52: 209–29. doi:. PMID 16913829. 6.WHO.Yellow fever". http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs100/en/. Retrieved 2009-08-13. 7.Chastel C (August 2003). "[Centenary of the discovery of yellow fever virus and its transmission by a mosquito (Cuba 1900–1901)]" (in French). Bull Soc Pathol Exot 96 (3): 250–6. PMID 14582304. 8.Monath TP (April 2008). "Treatment of yellow fever". Antiviral Res. 78 (1): 116–24. doi:. PMID 18061688. 10.Sampath A, Padmanabhan R (January 2009). "Molecular targets for flavivirus drug discovery". Antiviral Research 81 (1): 6–15. doi:. PMID 18796313. 11.Quaresma JA, Barros VL, Pagliari C, Fernandes ER, Guedes F, Takakura CF, Andrade HF Jr, Vasconcelos PF, Duarte MI (2006). "Revisiting the liver in human yellow fever: virus-induced apoptosis in hepatocytes associated with TGF-beta, TNF-alpha and NK cells activity". Virology 345 (1): 22–30. doi:. PMID 16278000. 12.Barrett AD, Teuwen DE (June 2009). "Yellow fever vaccine – how does it work and why do rare cases of serious adverse events take place?". Current Opinion in Immunology 21 (3): 308–13. doi:. PMID 19520559. 13."Supplementary information on vaccine safety". http://www.who.int/vaccines-documents/DocsPDF00/www562.pdf. Retrieved 2009-10-11. 14."Twelve million West Africans get yellow fever vaccines". BBC News. 23 November 2009. http://news.bbc.co.uk/1/hi/world/africa/8373960.stm. Retrieved 23 November 2009. 15."West Africa: 12m to be vaccinated for yellow fever". Times Live. 22 November 2009. http://www.timeslive.co.za/news/africa/article204730.ece. Retrieved 24 November 2009. 16."Mass vaccinations to fight yellow fever in Africa". Reuters. 17 November 2009. http://www.reuters.com/article/healthNews/idUSTRE5AG2VK20091117. Retrieved 24 November 2009. http://www.who.int/ith/countries/vaccination/en/ 17.Gould EA, de Lamballerie X, Zanotto PM, Holmes EC (2003). "Origins, evolution, and vector/host coadaptations within the genus Flavivirus". Advances in Virus Research 59: 277–314. doi:. PMID 14696332. 18.Chaves-Carballo E (2005). "Carlos Finlay and yellow fever: triumph over adversity". Mil Med 170 (10): 881–5. PMID 16435764. 19.Sbrana E, Xiao SY, Guzman H, Ye M, Travassos da Rosa AP, Tesh RB (2004). "Efficacy of post-exposure treatment of yellow fever with ribavirin in a hamster model of the disease". Am J Trop Med Hyg 71 (3): 306–12. PMID 15381811.
|
|
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |