Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 26/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 5 5 0 2 1 7
Số người đang truy cập
3 3
 
Ưu điểm và nhược điểm của thông tin khoa học công nghệ y học không dây

1. Thời của công nghệ y học không dây

Sự phát triển của công nghệ không dây được đánh giá là một bước tiến của ngành viễn thông. Ðặc biệt, trong một vài thập kỷ trở lại đây, công nghệ truyền thông không dây đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của khoa học và tri thức nhân loại. Ngày nay, nhiều ứng dụng mới đã được mở ra, trong đó phải kể tới ứng dụng công nghệ không dây trong y học hiện đại.

Sự xuất hiện của công nghệ không dây

Có thể hiểu về công nghệ y học không dây là sự góp mặt của những công nghệ, kỹ thuật điều khiển từ xa hiện đại hỗ trợ các bác sĩ trong điều trị bệnh. Chẳng hạn như các thiết bị khám phát hiện bệnh tự động, thiết bị phẫu thuật tự động, thiết bị đưa thuốc vào cơ thể người bệnh…, đặc biệt là các thiết bị có gắn chip siêu nhỏ (microchip) được đưa vào cơ thể làm nhiệm vụ phát hiện và truyền thông tin về các thiết bị điều khiển dưới sự kiểm soát từ xa của các chuyên gia y học.

Các phương tiện, thiết bị y học đang ngày càng tiến tới sự hiện đại hóa, đó chính là công nghệ không dây cho phép các thiết bị điện tử siêu nhỏ kết nối wireless với thiết bị điều khiển và màn hình quan sát. Công nghệ này cũng cho phép các bác sĩ hoàn thành công việc hàng ngày của mình một cách dễ dàng chỉ với việc điều khiển các con chip, các thiết bị y học siêu nhỏ cấy trong cơ thể bệnh nhân. Chúng có thể được cài đặt thiết bị thu phát tín hiệu wifi hoặc kết nối bluetooth và các công nghệ wireless khác.

 Công nghệ y học không dây - xu hướng của tương lai.

Ðến những ứng dụng thực tế

Mới đây nhất, một thiết bị siêu nhỏ có tên gọi telemedicine – một dạng dụng cụ điều trị từ xa là sản phẩm của các nhà khoa học thuộc Hiệp hội khoa học Mỹ tại Vancouver vừa đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của công nghệ y học không dây. Với những con chip siêu nhỏ – microchip được đặt sẵn bên trong và  ngăn có thuốc chứa sẵn, các telemedicine có thể kết nối thông tin với bộ điều khiển từ xa do các bác sĩ kiểm soát. Kích cỡ của telemedicine chỉ tương đương kích cỡ của một máy điều hòa nhịp tim – pacemaker và được đưa vào cơ thể bằng cách cấy dưới da.

Công việc chủ yếu của telemedicine sau khi được cấy vào cơ thể người bệnh là kiểm soát việc giải phóng thuốc một cách an toàn và chính xác tới các vết thương cần điều trị trong cơ thể bệnh nhân. Như vậy, thuốc điều trị cho bệnh nhân vẫn được tiếp cận vết thương đúng giờ mà không buộc người bệnh phải nhớ giờ uống thuốc hay phải tiêm thường xuyên. Loại công cụ này hứa hẹn sẽ được ứng dụng nhiều trong điều trị cho bệnh nhân mắc hen suyễn, tiểu đường và chứng loãng xương.

Giáo sư Langer và giáo sư Robert Langer tại Học viện kỹ thuật Massachusetts – Mỹ cho biết: trong tương lai, cùng với công nghệ nano, việc sử dụng các telemedicine sẽ ngày càng trở nên thuận tiện và hiệu quả hơn. Các loại thuốc điều trị sẽ được bảo quản tốt hơn nhờ lớp bao làm từ phân tử nano vàng. Khi đó, không chỉ một loại thuốc điều trị được đưa vào mà cùng lúc ta có thể đưa nhiều loại thuốc điều trị tổng hợp vào cơ thể và mọi việc chỉ đơn giản là điều khiển một con chip. 7 nữ bệnh nhân ở Đan Mạch tuổi từ 65 - 70 đã tình nguyện tham gia cuộc thử nghiệm cấy thiết bị telemedicine dưới da tại vùng gây tê. Các bác sĩ đã để lại thiết bị telemedicine có chứa thuốc trong cơ thể bệnh nhân trong 12 tháng và họ hoàn toàn khỏe mạnh bình thường. Cũng trong suốt thời gian này, telemedicine hoàn toàn kiểm soát quá trình đưa thuốc điều trị vào cơ thể người bệnh.

Trong hội thảo thường niên của các tổ chức khoa học Mỹ – AAAS, các nhà khoa học đều công bố thành công của việc cấy microchip vào cơ thể người bệnh phục vụ việc điều trị, trong đó đặc biệt đánh giá cao thành quả của công nghệ này trong điều trị bệnh loãng xương ở phụ nữ.

… Và tương lai

Trong tương lai, nhiều bệnh nhân mắc các chứng bệnh mạn tính khác cần sử dụng đến thuốc hàng ngày sẽ nhận được nhiều lợi ích từ sự phát triển của công nghệ y học không dây. Vấn đề đặt ra là làm sao để thiết kế những microchip hoạt động nhanh nhạy và đạt độ chính xác cao, chỉ cần một sai sót, trục trặc nhỏ trong quá trình vận hành của các microchip sau khi cấy vào trong cơ thể bệnh nhân cũng có thể gây cản trở hoặc làm đảo lộn việc chuyển thuốc của thiết bị vào cơ thể. Tuy nhiên, giới khoa học cho rằng vấn đề này có thể nằm trong sự kiểm soát của khoa học hiện đại và công nghệ y học không dây vẫn là một mục tiêu mang lại nhiều lợi ích mà y học đang hướng tới.

2. Hàng triệu người có thể mắc hội chứng nhìn máy tính

 
Nếu bạn dành hơn 3 tiếng một ngày ngồi trước máy tính hay một công cụ điện tử nào khác, có lẽ bạn đã mắc không ít thì nhiều một bệnh mà các bác sĩ gọi là Hội chứng nhìn máy tính. Bác sĩ Michael Duenas, thành viên của Hiệp hội Chuyên viên Nhãn khoa Hoa Kỳ cho biết:

Các bác sĩ ước tính có gần 80 triệu người Mỹ mắc hội chứng nhìn máy tính, chưa kể ngày càng có nhiều trẻ em có vấn đề về mắt vì mải mê với các công cụ điện tử. Hội chứng nhìn máy tính là một loại bệnh có liên hệ đến bệnh ghiền các công cụ digital, từ máy tính đến iPhone, từ trò chơi điện tử cầm tay cho đến e-books. Nếu bạn dành hơn 3 tiếng một ngày ngồi trước máy tính hay một công cụ điện tử nào khác, có lẽ bạn đã mắc không ít thì nhiều một bệnh mà các bác sĩ gọi là Hội chứng nhìn máy tính. Bác sĩ Michael Duenas, thành viên của Hiệp hội Chuyên viên Nhãn khoa Hoa Kỳ cho biết: “Hội chứng này làm ta mệt mỏi, đau đầu, đau cổ, đau lưng, nhìn một vật thành hai hình, và mờ mắt bất chợt.” Bác sĩ Rachel Bishop thuộc viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ cho biết: “Hội chứng này không có nghĩa là mắt bị hỏng, giống như bệnh tăng nhãn áp hoặc hư võng mạc do tiểu đường. Ở đây ta thấy mắt bị khô và mệt mỏi do tập trung quá nhiều.”

Bác sĩ Bishop nói rằng các cuộc nghiên cứu cho thấy khi tập trung quá nhiều vào máy tính, mắt ta không chớp thường xuyên, vì vậy dẫn đến mắt khô và mệt mỏi: “Có một cơ bắp trong mắt giúp ta tập trung mắt vào đối tượng đang nhìn. Màn hình máy tính thường ở xa hơn một cuốn sách, do đó khi ta tập trung nhìn màn hình trong nhiều giờ, cơ bắp đó phải mệt mỏi.” Bác sĩ Duenas cho rằng hậu quả của Hội chứng nhìn máy tính là mức sản xuất giảm đối với người lớn, khó học hành chăm chỉ và điểm thấp đối với học sinh. Các bác sĩ đồng ý rằng nhìn vào màn hình điện tử khác với nhìn sách in vì sách có độ tương phản cao hơn màn hình, và nhìn vào màn hình bắt buộc mắt làm việc nhiều hơn.

Bác sĩ Duenas nói các cuộc nghiên cứu cho thấy giới trẻ ngày càng có nhiều vấn đề về mắt: “Chúng tôi nhận thấy số trẻ em cận thị ngày càng đông bởi vì chúng tiếp xúc quá nhiều với các máy móc cầm tay.” Bác sĩ Bishop nói có vài biện pháp giúp khắc phục chuyện này: “Hiện thời người ta đã chế ra loại kính đặc biệt để đeo khi dùng máy tính. Các biện pháp khác là dùng thuốc nhỏ mắt cho trơn, cứ cách 15 phút thì tạm ngưng để nhìn vào khoảng không. Quan trọng hơn hết là phải chỉnh màn hình ở độ cao vừa tầm. Màn hình phải vào quãng 10 centimet dưới làn mắt. Không nên nhìn ngước lên màn hình.”

Dù các biện pháp khắc phục xem ra đơn giản, các bác sĩ cho rằng hội chứng nhìn máy tính sẽ tiếp tục phát triển vì ngày càng có nhiều phim bộ và phim truyền hình có thể xem trên máy tính, bên cạnh các công cụ điện tử loại nhỏ.

3. Sóng điện thoại di động làm thay đổi hoạt động não

 
 
Một nghiên cứu mới được công bố tuần này trên tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ cho thấy, tín hiệu điện thoại di động gây ra sự thay đổi có thể đo được trong hoạt động não ở bộ phận não gần với ăngten nhất.

Các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng cuộc nghiên cứu này, được thực hiện bởi Viện Y tế Quốc gia và Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, không phải nhằm đánh giá những tác động tiêu cực tiềm tàng của bức xạ điện từ.

Các nhà nghiên cứu đã quét não bộ của 47 đối tượng nghiên cứu khi cầm điện thoại di động ở bên trái và bên phải đầu gần một tiếng đồng hồ trong hai ngày thử nghiệm. Những người tham gia không nói vào điện thoại hay nghe các cuộc hội thoại.

Mặc dù không có sự thay đổi tổng thể nào trong hoạt động của não bộ, song họ nhận thấy sự chuyển hóa glucose của não tăng 7% ở bộ phần gần ăngten nhất khi điện thoại bật. Nhật báo Wall Street dẫn lời tiến sĩ Nora Volkow, nhà nghiên cứu tham gia công trình trên nói rằng sự thay đổi này được cho là tương đương với những thay đổi trong chuyển hóa glucose ở vỏ não thị giác khi ai đó nói.

Bà Volkow nói: "Nghiên cứu này chỉ ra rằng bộ não con người nhạy cảm với bức xạ điện từ của điện thoại di động." Tuy nhiên, bà cảnh báo những kết quả này không thể hiện việc liệu sự tương tác đó có gây ra tác dụng phụ gây hại hay không và điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thêm. Hoạt động sử dụng điện thoại di động đã tăng mạnh kể từ khi những thiết bị này được giới thiệu vào đầu và giữa thập niên 1980, và nay có khoảng 5 tỷ chiếc điện thoại di động đang được sử dụng trên toàn thế giới.

Một số nghiên cứu đã đưa ra mối liên hệ giữa điện thoại di động và sự gia tăng nguy cơ ung thư não, tuy nhiên, một công trình nghiên cứu quy mô lớn của Tổ chức Y tế Thế giới lại không đưa ra kết luận.

4. Điện thoại di động gây biến đổi hoạt động của não bộ

Để sát điện thoại di động bên tai và nói chuyện trong khoảng thời gian 50 phút có thể làm thay đổi hoạt động của tế bào não ở vùng tiếp xúc gần ăng-ten điện thoại.

Giáo sư Haggard:
“Nếu nghiên cứu chuyên sâu hơn khẳng định các tín hiệu điện thoại di động có tác động trực tiếp tới cơ chế chuyển hóa trong não, khi đó, điều quan trọng là cần nghiên cứu thêm để xác định liệu những tác động này có ảnh hưởng tới sức khỏe con người hay không” . Tiến sĩ Nora Volkow từ Viện Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Mỹ cho biết: “Điều chúng tôi nhận thấy là cơ chế chuyển hóa glucose (một dấu hiệu của hoạt động não bộ) gia tăng ở vùng não bộ tiếp xúc gần nhất với ăng-ten điện thoại di động”. Nhóm nghiên cứu của bà Volkow đã nghiên cứu 47 người được chụp não trong cả hai trường hợp: nghe điện thoại di động trong vòng 50 phút và khi điện thoại di động tắt.

Mặc dù cơ chế chuyển hóa trong não không hoàn toàn thay đổi, các nhà nghiên cứu nhận thấy cơ chế chuyển hóa não tăng 7% ở vùng tiếp xúc gần với ăng-ten điện thoại khi điện thoại đang bật. Nghiên cứu dự kiến tìm hiểu phản ứng của não bộ với từ trường do các tín hiệu điện thoại không dây tạo ra. Tiến sĩ Volkow cho biết bà rất ngạc nhiên khi nhận thấy bức xạ từ trường yếu từ điện thoại di động cũng ảnh hưởng tới hoạt động của não bộ. Tuy nhiên, bà cho rằng kết quả nghiên cứu chưa chứng minh được liệu điện thoại di động có gây ung thư não hay không.

“Nghiên cứu này chưa giải quyết được mối nghi ngờ trên. Nghiên cứu chỉ cho thấy não người rất nhạy với bức xạ từ trường khi tiếp xúc với điện thoại di động”, bà Volkow nói. Việc sử dụng điện thoại di động đã tăng mạnh kể từ khi sản phẩm này được giới thiệu vào thập niên 80 của thế kỷ trước. Hiện có khoảng 5 tỉ chiếc điện thoại di động đang được sử dụng trên toàn thế giới. Một số công trình nghiên cứu đã cho rằng việc tiếp xúc với điện thoại di động có liên quan tới nguy cơ ung thư não gia tăng. Tuy nhiên, một nghiên cứu tầm cỡ do tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thực hiện vẫn chưa kết luận về mối liên hệ này.

Mọi người nên thận trọng

Các chuyên gia cho rằng kết quả nghiên cứu còn nhiều khía cạnh chưa rõ ràng nhưng mọi người cần thận trọng. “Mặc dù ý nghĩa sinh học của hiện tượng chuyển hóa glucose gia tăng khi tiếp xúc với điện thoại còn chưa rõ ràng nhưng kết quả này cho thấy vấn đề cần được nghiên cứu chuyên sâu thêm”, ông Henry Lai từ Đại học Washington (Seattle) và Tiến sĩ Lennart Hardel từ University Hospital tại Orebro, Thụy Điển, viết trong bài phản hồi trên tạp chí JAMA. Giáo sư Patrick Haggard từ Đại học London cho rằng kết quả nghiên cứu rất thú vị bởi nghiên cứu đã chỉ ra tác động trực
tiếp của tín hiệu điện thoại đối với chức năng não. Tuy nhiên, ông cho biết mức độ dao động tỉ lệ chuyển hóa trong não mạnh hơn có thể diễn ra một cách tự nhiên, ví dụ khi người ta đang suy nghĩ.

“Nếu nghiên cứu chuyên sâu hơn khẳng định các tín hiệu điện thoại di động có tác động trực tiếp tới cơ chế chuyển hóa trong não, khi đó, điều quan trọng là cần nghiên cứu thêm để xác địnhliệu những tác động này có ảnh hưởng tới sức khỏe con người hay không”, Giáo sư Haggard nhận định. Tiến sĩ Volkow cho rằng những phát hiện nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học cần tìm hiểu thêm liệu điện thoại di động có tác động tiêu cực tới tế bào não hay không. Trong khi chưa có kết quả nghiên cứu rõ ràng, bà Volkow cố gắng tránh tác hại của điện thoại. Bà hiện sử dụng tai nghe thay cho việc đặt điện thoại sát tai. Bà khuyến cáo: “Tôi không nói rằng sử dụng điện thoại di động làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên, trong trường hợp có nguy cơ bất lợi cho sức khỏe, tại sao chúng ta không đề phòng?”

5. Điện thoại di động gây ung thư: Thật hay đùa?

Trong một đoạn phim đã truyền tới Việt Nam qua đường Internet cách đây ít lâu, bốn chiếc điện thoại di động cùng hoạt động được đặt gần một túi giấy chứa hạt bắp chưa rang. Chỉ mấy chục giây sau, túi bắp bắt đầu nổ lốp bốp chẳng khác gì trong máy rang bắp. Nghĩa là sóng điện thoại di động có tác dụng như nguồn nhiệt của máy rang bắp. Chu choa! Nếu vậy, điện thoại di động nguy hiểm quá, không chừng có thể làm các cơ quan trong cơ thể chúng ta... nổ lốp bốp không thua gì bắp rang như chơi.

May thay cho những người sử dụng điện thoại di động, đoạn video clip được truyền đi khắp thế giới kể trên chỉ là đoạn phim quảng cáo cho sản phẩm tai nghe điện thoại di động sử dụng công nghệ bluetooth không dây (ý nói sóng điện thoại di động có hại, vì thế nên sử dụng sản phẩm này để an toàn hơn).

Ung thư?

Tuy nhiên, mới đây chuyện điện thoại di động có gây ung thư hay không một lần nữa lại nổi lên dù số đông nhà khoa học trên thế giới vẫn cho rằng không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy hai sự việc này liên quan trực tiếp với nhau. Nhưng lần này, phe “chống điện thoại di động” xem ra có vẻ “nặng ký” hơn: chính Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO) lên tiếng rằng chiếc điện thoại di động mà nhiều người đã xem như vật bất ly thân có thể gây ung thư.

Theo tờ New York Times, đây là lần đầu tiên WHO đưa ra một tuyên bố như vậy dựa trên quan điểm của một tổ chức tạm dịch là Cơ quan quốc tế Nghiên cứu ung thư (International Agency for Research o­n Cancer) chuyên nghiên cứu các yếu tố môi trường và lối sống (lifestyle). Đứng đầu tổ chức tham vấn sức khỏe cho WHO này là một nhà khoa học “nặng ký”, TS. Jonathan Samet, một chuyên gia dịch tễ học thuộc Đại học Southern California và là một thành viên trong Ủy ban Tư vấn quốc gia về ung thư của Tổng thống Obama.

Nhóm của Samet vừa tổng kết các nghiên cứu về ảnh hưởng của sóng vô tuyến từ trường do điện thoại di động phát ra lên sức khỏe của người sử dụng. Trong một buổi họp báo, TS. Samet nói nhóm của ông xếp điện thoại cầm tay vào loại “có thể gây ung thư” vì đã thu thập được dữ liệu cho thấy sự liên quan giữa việc sử dụng điện thoại di động và một loại ung thư não gọi là “u thần kinh đệm” (glioma). Chính glioma ba năm trước đã cướp đi sinh mạng của Ted Kennedy, vị thượng nghị sĩ huyền thoại của nước Mỹ.

 
Năm ngoái, một cuộc nghiên cứu với tên gọi Interphone được thực hiện trên 13 quốc gia. Cho đến nay, đây là nghiên cứu quy mô nhất về mối liên quan giữa sử dụng điện thoại di động và khối u não. Nghiên cứu Interphone không tìm thấy nguy cơ gia tăng ung thư khi dùng điện thoại cầm tay nói chung, nhưng nhận xét rằng những người sử dụng điện thoại di động nhiều nhất lại có nguy cơ phát triển khối u này cao hơn 40%.

Một nghiên cứu được công bố trên tập san Hội Y học Mỹ (Journal of the American Medical Association) hồi tháng 2 năm nay cũng cho thấy sau gần một giờ dùng điện thoại di động, hoạt động ở vùng não bộ gần nhất với bộ phận ăng ten tiếp sóng của chiếc điện thoại đã gia tăng 7% tốc độ. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự tăng tốc không liên quan đến nhiệt do chiếc điện thoại tỏa ra vì vùng não xảy ra sự gia tăng ở gần vị trí của ăng ten chứ không phải chỗ điện thoại tiếp xúc với đầu. Như vậy, có thể suy diễn rằng sóng điện thoại di động ảnh hưởng lên hoạt động não bộ.

Không ung thư?

Từ lâu, người ta đã biết điện thoại di động phát ra các bức xạ. Tuy nhiên, loại bức xạ này không mạnh đến nỗi làm vỡ các liên kết hóa học hay làm tổn hại các phân tử DNA dẫn đến ung thư.

          
Phe “ủng hộ điện thoại di động” cho rằng nghiên cứu Interphone nêu trên mắc phải nhiều lỗi về mặt phương pháp. Nhìn chung, các kết quả cho thấy người sử dụng điện thoại di động có ít nguy cơ mắc bệnh ung thư hơn. Nhưng chẳng mấy ai tin rằng điện thoại cầm tay có thể giúp con người chống lại các khối u. Nếu thế, càng có cơ sở nghi ngờ các kết luận còn lại. Hơn nữa, nếu điện thoại cầm tay thực sự gây ra u thần kinh đệm, số người mắc phải chắc chắn phải gia tăng đáng kể trên toàn thế giới vì sự phổ biến của thiết bị này. Nhưng may thay, điều đó chưa xảy ra.

Chính TS. Samet cũng đã phát biểu như sau: “Chúng tôi phát hiện một số bằng chứng cho thấy ung thư đã xuất hiện như thế nào nhưng cũng phải công nhận rằng có những khoảng cách và sự không chắc chắn [trong kết luận của chúng tôi]”.

Nên làm gì?

Từ năm 1971, Cơ quan quốc tế Nghiên cứu ung thư đã đánh giá hơn 900 yếu tố môi trường và lối sống có thể gây ung thư để phân thành năm nhóm như sau. Theo đó, cơ quan này đã phát hiện 107 yếu tố gây ung thư cho người, tiêu biểu là amiăng (asbestos), estrogen và thuốc lá. Gần 60 yếu tố được xếp loại “có lẽ gây ung thư”, ví dụ như như vi khuẩn HPV và công việc làm ca đêm. Gần 270 yếu tố được cho là “có thể gây ung thư” như một số hóa chất công nghiệp, cà phê và bây giờ là cả điện thoại di động.

Cho đến nay, cơ quan này vẫn không sao thống nhất được về tác động của 508 yếu tố khác và không biết xếp chúng vào loại nào, chẳng hạn như nước uống chứa clo, ánh sáng đèn huỳnh quang và trà. Còn lại, họ chỉ có thể khẳng định được một trường hợp duy nhất “có thể không gây ung thư”. Đó là một loại hóa chất dùng trong nước uống sạch.

Vậy thì dụng ý của việc xếp điện thoại di động vào nhóm “có thể gây ung thư” là gì?

Cho đến nay các nghiên cứu về điện thoại di động chỉ mới được thực hiện trên người trưởng thành trong khi trong thực tế các thế hệ sau sẽ có thời gian tiếp xúc với thiết bị này ngày càng dài hơn. “Sẽ đến lúc trẻ em sử dụng điện thoại di động hay một thiết bị tương tự suốt cả đời”, TS. Samet nói. “Chúng ta cần biết rõ có nguy cơ ung thư khi sử dụng hay không”.

Còn chúng ta nên làm gì? Nhóm của TS. Samet không đưa ra lời khuyên nào cụ thể dù một thành viên cho rằng sử dụng các thiết bị tai nghe rảnh tay (hands-free headset) hoặc sử dụng tin nhắn sẽ giúp giảm bớt thời gian ảnh hưởng của sóng vô tuyến. Nhưng thói thường, điều gì quá mức cũng trở thành tác hại. Có lẽ lựa chọn tối ưu trong khi chờ đợi các nhà khoa học có thêm kết luận rõ ràng là nên sử dụng điện thoại di động khi cần và chỉ nói vừa đủ. Hơn nữa, bạn có bao giờ làm bài toán này chưa? Nếu “tám” bằng điện thoại di động suốt ngày đêm không nghỉ, bạn sẽ phải trả hơn 43 triệu đồng một tháng cho nhà mạng.

5. Điện thoại di động có thể gây dị ứng

 
Những năm gần đây, đã có những nghiên cứu chứng minh điện thoại di động gây dị ứng cho một số người sử dụng, thường là vùng quanh hàm, trên mặt hoặc quanh tai. Các nhà khoa học cho rằng họ dị ứng với kim loại, đặc biệt là nickel, có trong điện thoại di động.

Trong một trường hợp điển hình ghi nhận năm 2008, một thanh niên 18 tuổi bị dị ứng ở mặt. Khi anh thay điện thoại di động có nickel của mình bằng một chiếc điện thoại khác không chứa hợp kim này, triệu chứng dị ứng lập tức biến mất.

6. Điện thoại di động có nguy hiểm với trẻ em?

Hệ thống thần kinh của trẻ em vẫn đang phát triển, và người ta lo ngại rằng bức xạ từ điện thoại di động có thể thâm nhập sâu hơn vào bộ não của chúng và gây nguy hiểm. Trong khi nhiều chuyên gia nói rằng không có mối liên hệ nào giữa việc sử dụng điện thoại di động và bệnh ung thư ở người lớn thì vẫn còn những băn khoăn về những rủi ro mà trẻ em phải đối mặt.

Trẻ em chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiều hơn

Nghiên cứu về sức khỏe người dùng dưới ảnh hưởng của điện thoại di động là một vấn đề rất khó khăn. Điện thoại di động được sử dụng trong một thời gian tương đối ngắn trong khi việc nghiên cứu để chữa bệnh ung thư cần hàng thập kỷ để phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các nhà khoa học dường như đồng ý một điều rằng nếu điện thoại di động gây nguy hiểm, trẻ em là đối tượng có thể dễ bị tổn thương hơn so với phần còn lại của thế giới – những người đã trưởng thành.

Bác sĩ Annie Sasco của Viện y tế công cộng, dịch tễ học ở Bordeaux đã nói: “Nếu sự xâm nhập của sóng điện từ đi sâu vào 4 cm trong não người trưởng thành là sẽ tới thùy thái dương. Không có quá nhiều chức năng quan trọng ở thùy thái dương - nhưng trong một đứa trẻ, cấu trúc não trung tâm sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn. Ngoài ra trẻ em có hộp sọ mỏng, được bảo vệ ít hơn và lượng nước trong não nhiều hơn, vì vậy dễ hấp thụ bức xạ”
 

Có khoảng 5 tỷ người đang sử dụng điện thoại di động trên toàn thế giới


Và có thể gây ung thư

Nghiên cứu của châu Âu được công bố trên Tạp chí của Viện ung thư quốc gia Mỹ đã kết luận trẻ em sử dụng điện thoại di động không có nhiều nguy cơ phát triển bệnh ung thư não so với những người không sử dụng điện thoại di động. Tuy nhiên, các nhà phê bình cho rằng nghiên cứu này là quá ngắn hạn và những dữ liệu mà nó sử dụng là hết hạn.

Cơ quan Quốc tế về nghiên cứu ung thư (IARC) gần đây đã phân loại lại điện thoại di động. Cơ quan của Liên Hiệp Quốc không khẳng định rằng điện thoại di động chắc chắn gây nguy hiểm, thay vào đó họ đã xếp điện thoại di động vào diện có thể gây ung thư. Việc phân loại như vậy là kết quả của một cuộc họp được tổ chức tại trụ sở ở Lyon với thành phần là các nhà khoa học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Họ đã xem xét những dữ liệu thực nghiệm từ nghiên cứu động vật và cũng đã nghiên cứu các dự án dài nhất về việc sử dụng điện thoại di động bởi những người bị bệnh ung thư não.

Bác sĩ Kurrt Straif của IARC đã nói: “Bằng chứng thuyết phục nhất thực sự đến từ các nghiên cứu ung thư ở người và có một số bằng chứng cho thấy có thể có một sự liên quan giữa việc sử dụng điện thoại di động và một số loại ung thư não”.

GSMA - cơ quan đại diện cho lợi ích của ngành công nghiệp di động đã tiếp nối các phát hiện của IARC bằng cách nói: “Việc phân loại của IARC cho thấy một mối nguy hiểm là có thể nhưng không có khả năng xảy ra”. Trong khi GSMA thừa nhận rằng một số người dùng điện thoại di động có thể cảm thấy lo lắng tuy nhiên các tiêu chuẩn an toàn hiện nay vẫn còn hiệu lực và rằng mọi việc cần phải nghiên cứu thêm.

Lời khuyên an toàn

Một số nhà khoa học tin rằng phân loại của IARC giữa mối liên hệ "có thể" của bệnh ung thư và sử dụng điện thoại di động là không đủ mạnh.

Bác sĩ Annie Sasco nói :“Tôi nghĩ rằng điện thoại di động là một nguy cơ gây ra những khối u não và chúng tôi đã có những bằng chứng đáng lưu tâm từ những cuộc nghiên cứu cho thấy rằng những người sử dụng điện thoại di động trong thời gian hơn 10 năm có nguy cơ bị u thần kinh đệm tăng gấp đôi - đây là loại u não và thường gây tử vong”.

Tất nhiên với những phụ huynh, việc cho trẻ em sử dụng điện thoại di động sẽ giúp họ cảm thấy yên tâm hơn khi những đứa trẻ ra ngoài và đối mặt với một thế giới đầy rẫy các mối nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu mối nguy hiểm đến ngay từ chiếc điện thoại di động thì chúng ta cần khôn ngoan hơn để có các biện pháp phòng ngừa.

Bác sĩ Straif phát biểu: “Từ việc xem xét các yếu tố, chúng tôi thấy có thể nói rằng chủ yếu việc sử dụng điện thoại di động là cho các cuộc gọi, đặc biệt là khi điện thoại để gần não hoặc tai - vì vậy bạn nên sử dụng chức năng gọi rảnh tay cho các cuộc gọi. Ngoài ra còn có một số bằng chứng rằng việc ảnh hưởng ở trẻ em có thể cao hơn hai lần bởi vì cấu trúc sinh học khác nhau và các yếu tố khác ảnh hưởng đến, do đó chúng ta cần thận trọng để hạn chế hơn nữa cho trẻ em với những biện pháp nghiêm túc hơn”.

Trẻ em nên được khuyến khích nhắn tin hơn là gọi điện 

Sử dụng tin nhắn nhiều hơn các cuộc gọi, sử dụng bộ đàm thoại rảnh tay… là những lời khuyên của các chính phủ và cơ quan y tế tới người tiêu dùng trong kết luận mới của IARC về việc phân loại điện thoại di động.

Elizabeth Ruffinengo, người phụ nữ đại diện cho tổ chức “Tương lai chung cho châu Âu”, tin rằng như điện thoại di động là yếu tố gây ung thư do đó cần phải có một số khuyến nghị an toàn. Cô nói: “Chúng tôi đã nghe các nhà khoa học nói rằng trẻ em có nhiều nguy cơ khi tiếp xúc với điện thoại di động, vì vậy những gì chúng tôi muốn là có một khuyến nghị an toàn theo sự phân loại mới của IARC và xa hơn là cho những điều mà chúng ta chưa nhìn thấy bây giờ. Chúng tôi nghĩ rằng mọi người đang phải đối mặt với một nguy cơ sức khỏe mới và rằng chúng ta không nên chờ đợi từ 30 đến 40 năm để xem kết quả”.

             Điều quan trọng hơn là việc này do chính chúng ta quyết định, xem có nên bỏ qua những cảnh báo hoặc các biện pháp phòng ngừa cho trẻ em khi sử dụng điện thoại di động hay có những hành động để bảo vệ cho những người dễ bị tổn thương nhất chứ không phải là đổ lỗi cho người khác nếu như những dự báo nguy hiểm trên lần lượt trở thành hiện thực

Tác hại của điện thoại di động với sức khỏe

Điện thoại di động là vật bất ly thân của nhiều người nhưng nó cũng có thể gây ra những tác hại nghiêm trọng cho sức khỏe đấy.

Sóng bức xạ lớn nhất khi nào?

Khi sử dụng, điện thoại di động sẽ phát ra một loại sóng điện từ truyền đến trạm bức xạ để nhận và phát tín hiệu. Loại sóng bức xạ này cũng được cơ thể con người hấp thụ. Độ bức xạ tương đối nhỏ khi điện thoại đang ở trạng thái chờ sử dụng. Nó lớn hơn trong quá trình đàm thoại và đạt độ lớn nhất khi đang phát tín hiệu gọi một máy khác, caogấp 3 lần độ bức xạ khi máy ở trạng thái chờ sử dụng. Sự bức xạ này có thể làm thay đổi cấu trúc một số tế bào cơ thể, gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Không để điện thoại cạnh gối khi ngủ

Theo các chuyên gia, sóng bức xạ của điện thoại di động gây ảnh hưởng đến não lớn nhất, nó có thể tác động lên hệ thống thần kinh trung ương dẫn đến các triệu chứng như đau đầu, mất ngủ, ngủ mê, rụng tóc, có người còn có cảm giác như bị kim châm ở mặt… Sử dụng điện thoại di động thời gian dài có thể làm tăng nguy cơ bị khối u ở não.

Vì vậy, khi sử dụng, bạn nên để điện thoại xa cơ thể, chờ kết nối được mới để vào tai nghe. Không nên dùng di động để buôn chuyện và đặc biệt không để điện thoại cạnh gối khi đi ngủ.

Không đeo điện thoại di động trước ngực

Rất nhiều người thích đeo điện thoại di động trước ngực để tiện sử dụng hoặc coi như một món đồ trang sức. Nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy đeo điện thoại di động trước ngực sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho tim và hệ nội tiết của cơ thể. Ngay cả khi điện thoại đang ở trạng thái chờ sử dụng, sóng bức xạ tuy nhỏ nhưng cũng gây hại cho cơ thể. Những người bị bệnh về tim mạch càng nên tránh để điện thoại di động treo trước ngực. Các chuyên gia cho rằng sóng bức xạ điện từ tác động đến nội tiết của cơ thể, gây hiện tượng kinh nguyệt không đều, ảnh hưởng đến sự trao đổi chất của tế bào, làm rối loạn các nguyên tố vi lượng. Điện thoại di động thường có gắn một thiết bị chống nhiễu sóng, có tác dụng làm giảm ảnh hưởng của bức xạ từ đối với cơ thể, các thiết bị chống nhiễu được làm bằng kim loại nặng như chì, nhôm thì hiệu quả càng cao.

Không để điện thoại di động trong túi quần

Nghiên cứu đã phát hiện rằng số lượng tinh trùng của các đấng mày râu thường xuyên mang điện thoại ở eo lưng và sử dụng điện thoại ít hơn so với người bình thường là 30%. Nguyên do là sóng điện từ sinh ra khi thu phát tín hiệu sẽ bức xạ đến tinh trùng hoặc trứng trong cơ thể, làm ảnh hưởng chức năng sinh sản của người sử dụng.

Một báo cáo thực nghiệm trên chuột ở Anh cho thấy, khi bị bức xạ bởi sóng từ của điện thoại di động trong 5 phút, trong cơ thể chuột đã nảy sinh ADN biến dạng. Trứng hay tinh trùng của người cũng vậy, nếu bị bức xạ từ trong thời gian dài cũng sản sinh các ADN biến dạng.

Vì vậy khi sử dụng điện thoại, bạn nên để tránh xa vùng eo, lưng. Cánh mày râu đặc biệt chú ý không nên nhét điện thoại trong túi quần, vì nó rất gần nhà máy sản xuất tinh trùng và trực tiếp uy hiếp các tinh binh.

  

 

Ngày 10/05/2012
Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang, Cn. Nguyễn Hải Giang  
    Các nội dung khác »

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích