Trước đây bệnh viêm phổi do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii được phát hiện trên những người bị suy giảm miễn dịch do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hiện nay, bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS ngày càng tăng nên khả năng nhiễm loại trùng bào tử này cũng tăng theo. Một thống kê ở Mỹ ghi nhận có tới 60 đến 90% số bệnh nhân AIDS bị viêm phổi do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii. Tại Việt Nam cũng đã có thông báo về một số trường hợp bệnh nhân AIDS bị viêm phổi do nhiễm loại trùng bào tử này.
Đặc điểm của trùng bào tử Pneumocystis carinii
Con người và nhiều loại động vật ở khắp nơi trên thế giới đều có thể bị nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii. Tuy nhiên, khả năng và mức độ bị mắc bệnh do loại trùng bào tử này gây ra phụ thuộc vào cơ địa của người bệnh. Theo nghiên cứu, có khoảng từ 1 đến 10% số người bị nhiễm bệnh do loại trùng bào tử Pneumocystis carinii thường ở dạng tiềm ẩn. Sự lây truyền loại trùng bào tử này xảy ra trực tiếp từ người bị nhiễm bệnh sang người lành.
Trước đây, bệnh thường được mô tả trên những người bị suy giảm miễn dịch do nhiều nguyên nhân khác nhau, đôi khi đã xảy ra dịch bệnh trong một khoa sơ sinh có nhiều trẻ nhỏ sinh thiếu tháng, gầy còm, suy dinh dưỡng. Ngày nay với sự phát triển của xã hội, tình hình nhiễm HIV/AIDS ngày càng gia tăng nên bệnh viêm phổi do nhiễm loại trùng bào tử Pneumocystis carinii cũng có chiều hướng phát triển tăng theo giống như bệnh lao phổi.
Loại trùng bào tử Pneumocystis carinii gây bệnh viêm phổi kẽ tương bào. Bệnh viêm phổi ở người do nhiễm loại trùng bào tử này được phát hiện lần đầu tiên tại Congo vào năm 1962. Bệnh thường gặp ở những đứa trẻ sơ sinh thiếu tháng, suy dinh dưỡng hoặc ở những người bệnh bị suy giảm miễn dịch mắc phải hay ghép tạng. Từ năm 1982 cho đến nay, bệnh viêm phổi do nhiễm loại trùng bào tử Pneumocystis carinii đã gặp nhiều trên những bệnh nhân AIDS với tỷ lệ cao và gây ra những biến chứng khá nặng nề.
Về hình thể:
Trong quá trình phát triển, trùng bào tử Pneumocystis carinii có các loại hình thể khác nhau như:
+ Thể hoạt động: có 2 dạng:
-Dạng nhỏ (đơn bội) hình quả trứng hoặc hình lưỡi liềm, kích thước từ 1 đến 3 µm, có một nhân ở giữa, tế bào chất đậm đặc.
-Dạng lớn (lưỡng bội) có hình thể không đều, kích thước lớn hơn, từ 4 đến 10 µm, có một nhân và tế bào chất loãng hơn.
+ Thể tiền bào nang: có hình quả trứng, kích thước từ 3,5 đến 5,5 µm, thành ngoài rất dày, thường nhẵn và đều, nhân chia ra thành nhiều mảnh với số lượng từ 2 đến 8 mảnh.
+ Thể bào nang: có hình tròn, kích thước từ 4 đến 8 µm, thành bào nang tiếp tục dày thêm, bên trong có 8 ký sinh trùng non hoàn chỉnh. Mỗi ký sinh trùng non có một nhân, tế bào chất và một màng mỏng bao quanh. Các thể trong bào nang có hình tròn, hình quả chuối hoặc dạnh amíp. Khi nhuộm giemsa, thấy nhân bắt màu tím xếp thành hình hoa hồng.
Về sinh học:
Chu kỳ phát triển của loại trùng bào tử Pneumocystis carinii được hoàn thành trong một vật chủ và xảy ra trong phế nang. Những thể hoạt động dạng nhỏ tụ thành từng đám giống như tổ ong, thường dính vào thành phế nang. Chúng phát triển lên thành dạng amíp. Hai thể hoạt động dạng nhỏ kết hợp lại để thành một dạng lớn. Những thể hoạt động dạng nhỏ sinh sản bằng cách phân đôi hoặc nội sinh. Một tế bào mẹ có thành mỏng sinh ra nhiều tế bào con cũng có thành mỏng trước hoặc sau khi kết hợp lại thành thể hoạt động dạng lớn.
Loại trùng bào tử Pneumocystis carinii ăn chất tiết màng nhầy của phế nang. Sau một thời gian biến thành thể bào nang, lúc đầu có một nhân rồi phân chia tiếp thành nhiều nhân. Tiền bào nang trở thành bào nang, bên trong có 8 ký sinh trùng con và được phóng thích ra trong phế nang.
Trùng bào tử tiết men vào môi trường nơi chúng đang ký sinh, làm cho thức ăn được phân cắt nhỏ thành các chất dinh dưỡng. Những chất dinh dưỡng này khuếch tán qua màng vào bên trong ký sinh trùng.
Các thể hoạt động không di chuyển mà thường bám vào nhau và vào tế bào thành phế nang. Chất polysaccharide có vai trò làm cho các ký sinh trùng dính vào nhau, tạo thành hình ảnh tổ ong.
Ở những người bị suy giảm miễn dịch và trong môi trường nuôi cấy trên mô hạch của chuột, phần lớn các ký sinh trùng sinh sản bằng cách phân đôi.
Trùng bào tử Pneumocystis carinii gặp ở người và nhiều động vật có xương sống như khỉ, chó, mèo, cừu, dê, chuột... và phân bố rộng rãi khắp nơi.
Về hình thể, trùng bào tử Pneumocystis carinii có hình thể giống nhau ở các vật chủ nhưng thành phần kháng nguyên thì khác nhau. Kháng nguyên chủ yếu là 2 protein có trọng lượng phân tử 116 kD và 45–50 kD ở chuột; còn ở người thì protein chủ yếu là glycoprotein có trọng lượng phân tử 116 kD và 40 kD. Tuy vậy, trùng bào tử Pneumocystis carinii ký sinh ở các loại vật chủ đều có một số quyết định kháng nguyên chung. Những nghiên cứu dùng kháng nguyên đơn dòng cho thấy sự phong phú về kháng nguyên ở các chủng loại trùng bào tử Pneumocystis carinii phân lập trên các động vật khác nhau. Do loại trùng bào tử này ký sinh trên các loài động vật khác nhau sẽ có chu kỳ phát triển khác nhau, kháng nguyên đặc hiệu và vị trí kháng nguyên chính cũng khác nhau.
 |
(ảnh st) |
Bệnh lý viêm phổi do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii
Loại trùng bào tử Pneumocystis carinii thường gây nên các thể bệnh tiềm tàng trên các loài động vật cũng như trên người. Loại trùng bào tử này gây ra bệnh lý chủ yếu ở phổi, bệnh lý ngoài phổi và có thể gặp trên những bệnh nhân bị bệnh AIDS.
Trùng bào tử Pneumocystis carinii thường gây bệnh chủ yếu ở những trẻ nhỏ sinh thiếu tháng hoặc những trẻ sơ sinh ốm yếu, suy dinh dưỡng. Ngoài ra, còn gặp ở các người bệnh chuẩn bị ghép phủ tạng được điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch làm cho tình trạng nhiễm loại trùng bào tử này dễ trở thành cấp tính.
Nói chung, người chỉ bị bệnh viêm phổi do loại trùng bào tử Pneumocystis carinii gây nên khi tình trạng miễn dịch bị suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau như bị bệnh ung thư bạch huyết, u lympho ác tính, hodgkin, myelome multiple, thiếu granulomaglobulin máu, thiếu máu bất sản... đang được điều trị bằng corticoide, kháng sinh dài ngày; chiếu tia xạ, điều trị suy giảm miễn dịch và nhất là bị bệnh AIDS. Ở những bệnh nhân bị bệnh AIDS, trùng bào tử Pneumocystis carinii là một tác nhân gây bệnh cơ hội thường gặp ở Mỹ, châu Âu; còn ở châu Phi ít gặp hơn.
Về mô học, vách ngăn giữa các phế nang dày lên, bị thâm nhiễm tế bào, chủ yếu là tương bào ở những người có miễn dịch bình thường. Ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thì vách ngăn giữa các phế nang ít dày hơn và không có thâm nhiễm tế bào. Phế nang bị giãn rộng, chứa đầy mảnh vụn tế bào và vi khuẩn. Trùng bào tử định vị trên lớp biểu mô của phế nang, hấp thu các chất dinh dưỡng và tăng sinh trong các tế bào này.
Ở nhũng người bình thường nếu bị nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii thường không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Ở những đối tượng có cơ địa đặc biệt như đã nêu ở trên thì loại trùng bào tử này có thể gây ra các thể bệnh tiềm ẩn hoặc cấp tính. Thời gian ủ bệnh trung bình khoảng 60 ngày.
Đa số các trường hợp bệnh khởi phát âm thầm, đôi khi đột ngột với triệu chứng khó thở, ho, sốt, nhịp tim nhanh, đau bụng, đau ngực... Diễn biến của bệnh sẽ có tiến triển tăng dần dẫn đến tình trạng suy hô hấp cấp tính. Cũng có những trường hợp bệnh tuy biểu hiên triệu chứng lâm sàng không rầm rộ nhưng lại gây ra biến chứng suy hô hấp nặng nề; nếu không được điều trị kịp thời, người bệnh có thể bị tử vong sau từ 2 đến 3 tuần.
Chẩn đoán bệnh viêm phổi do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii
Việc chẩn đoán bệnh bệnh viêm phổi do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii thường căn cứ vào yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng.
Về lâm sàng: người bệnh có các biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm phổi, vì vậy không có giá trị trong chẩn đoán xác định. Trong khi khám bệnh, cần chú ý kết hợp với việc khai thác bệnh sử trên bệnh nhân bị nhiễm HIV, có điều trị thuốc loại corticoides kéo dài...
Về cận lâm sàng:
- Chụp phim X quang phổi cho thấy hình ảnh những hạt mịn ở hai bên lá phổi, đáy phổi bị khí thủng. Sau đó dần dần xuất hiện hình ảnh lưới rồi mờ đục.
- Có thể xác định hình thể của trùng bào tử Pneumocystis carinii sau khi nhuộm tiêu bản. Bệnh phẩm thường lấy để làm tiêu bản là đờm, nước rửa phế quản-phế nang hoặc sinh thiết phổi.
- Dùng phương pháp huyết thanh chẩn đoán để tìm kháng thể kháng Pneumocystis carinii trong huyết thanh có giá trị trong điều tra dịch tễ hơn là để chẩn đoán bệnh. Phương pháp được dùng nhiều nhất hiện nay là miễn dịch huỳnh quang gián tiếp IFA (Immunofluorescent) hoặc miễn dịch men Elisa (Enzyme linked immunosorbent assay). Có thể tìm kháng nguyên của ký sinh trùng hoặc các thành phần của ký sinh trùng bằng miễn dịch huỳnh quang (Fluo Kit) với kháng thể đơn dòng. Ngoài ra, kỹ thuật sinh học phân tử PCR (Polymerase chain reaction) ngày càng được ứng dụng rộng rãi và cho kết quả đáng tin cậy.
Điều trị và phòng bệnh
Điều trị bệnh viêm phổi do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii có thể sử dụng các loại thuốc sau đây:
- Kết hợp thuốc trimethoprim với thuốc sulfamethoxazole, biệt dược là Bactrim. Liều dùng của thuốc trimethoprim 16 mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày phối hợp với thuốc sulfamethoxazole 80 mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày cho người lớn. Thời gian điều trị trong 3 tuần.
- Thuốc Pentamidine liều lượng 4 mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày, tiêm tĩnh mạch chậm hoặc dùng khí dung. Điều trị trong 3 tuần.
- Kết hợp thuốc pyrimethamine với thuốc sulfadoxine, biệt dược là Fansidar, uống 1 viên cho mỗi 20 kg trọng lượng cơ thể. Điều trị trong 20 ngày.
Cần phòng bệnh cho những người có nguy cơ bị nhiễm bệnh do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii cao như bị suy giảm miễn dịch với nhiều nguyên nhân khác nhau và người bị bệnh AIDS nếu có tế bào lympho TCD4+/ml máu thấp hơn 200. Ở Việt Nam, đã có thông báo về một số trường hợp bệnh nhân AIDS bị viêm phổi bệnh do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis carinii. Vì vậy, cần quan tâm đến vấn đề này.