Nhiều năm qua nỗ lực phòng chống sốt rét (PCSR) ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã góp phần làm giảm mắc sốt rét, giảm chết sốt rét và không để dịch sốt rét xảy ra. Tuy nhiên nguy cơ sốt rét ở khu vực vẫn còn cao do đặc thù sốt rét phức tạp, di biến động dân cư lớn; hàng năm số bệnh nhân sốt rét (BNSR) chiếm 42%, ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) chiếm 75%, sốt rét ác tính (SRAT) và tử vong sốt rét (TVSR) chiếm trên 80% so với cả nước. Ngay từ đầu năm Bộ Y tế đã có Công văn 501/BYT-DP và Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn có Công văn 24/VSRQN-DT cảnh báo nguy cơ gia tăng sốt rét trong năm 2006 cùng nhiều vănbản chỉ đạo các tỉnh trong khu vực tăng cường hiệu quả hoạt động phòng chống sốt rét tại các vùng trọng điểm.
Trong 10 tháng đầu năm 2006, nhất là hai tháng 8 & 9 số BNSR, TVSR gia tăng đột biến tại một số vùng, vì vậy trong các tháng cuối năm cần đánh giá đúng thực trạng tình hình sốt rét, ưu tiên khống chế sốt rét gia tăng và ngăn chặn khả năng xảy dịch.
I. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH SỐT RÉT 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2006
1. Đánh giá tình hình sốt rét 10 tháng đầu năm 2006:
Bảng 1: So sánh các chỉ số sốt rét 10 tháng 2006 với cùng kỳ 2005
TT | Chỉ số | So sánh sốt rét 10 tháng | Tăng, giảm (%) |
Năm 2006 | Năm 2005 |
1 | BNSR | 30.301 | 33.846 | - 10,47 |
2 | SRAT | 150 | 135 | Tăng 15 ca |
3 | TVSR | 22 | 9 | Tăng 13 ca |
4 | Tỷ lệ KSTSR% | 1,44 | 1,37 | + 4,41 |
Phân tích số liệu thống kê sốt rét toàn khu vực 10 tháng đầu năm 2006 thấy BNSR giảm 10,47%, nhưng tỷ lệ KSTSR tăng 4,41%, SRAT tăng 15 ca và TVSR tăng 13 ca so với cùng kỳ năm trước.
Bảng 2: Phân bố BNSR và TVSR 10 tháng 2006 và cùng kỳ 2005
TT | Tỉnh | BNSR | TVSR |
10th 2006 | 10th 2005 | % (+,-) | 10th 2006 | 10th 2005 | % (+,-) |
1 | Quảng Bình | 2383 | 2394 | - 0,46 | 1 | 0 | + 1 |
2 | Quảng Trị | 2386 | 2428 | - 2,47 | 0 | 1 | - |
3 | TT-Huế | 700 | 724 | - 3,31 | 0 | 0 | - |
4 | TP. Đà Nẵng | 63 | 64 | - 1,56 | 0 | 0 | - |
5 | Quảng Nam | 2914 | 5769 | - 49,49 | 0 | 1 | - |
6 | Quảng Ngãi | 697 | 1045 | - 33,30 | 1 | 0 | + 1 |
7 | Bình Định | 706 | 568 | + 24,30 | 2 | 0 | + 2 |
8 | Phú Yên | 674 | 657 | + 2,59 | 2 | 0 | + 2 |
9 | Khánh Hòa | 2637 | 3206 | - 17,75 | 0 | 1 | - |
10 | Ninh Thuận | 1429 | 1576 | - 9,33 | 0 | 0 | - |
11 | Bình Thuận | 594 | 836 | - 28,95 | 1 | 0 | + 1 |
12 | Gia Lai | 5984 | 5134 | + 16,35 | 5 | 4 | + 1 |
13 | Kon Tum | 2136 | 2741 | - 22,07 | 0 | 0 | - |
14 | Dak lak | 3981 | 3482 | + 14,33 | 9 | 1 | + 8 |
15 | Dak Nông | 3035 | 3213 | - 5,54 | 1 | 1 | - |
| Miền Trung | 15.165 | 19.267 | - 21,29 | 7 | 3 | + 4 ca |
| Tây Nguyên | 15.136 | 14.579 | + 3,82 | 15 | 6 | + 9 ca |
| Toàn khu vực | 30.301 | 33.846 | - 10,47 | 22 | 9 | + 13 ca |
Khu vực miền Trung số mắc sốt rét giảm 21,29% nhưng tại Tây Nguyên số mắc tăng 3,82%. Các tỉnh có số mắc sốt rét gia tăng gồm Bình Định, Phú Yên, Gia Lai và Đak Lak.
Phân tích diễn biến tình hình sốt rét một số thời điểm trong năm 2006 như sau:
Trong 6 tháng đầu 2006 BNSR toàn khu vực giảm 20,50% so với cùng kỳ năm trước, nhưng một số tỉnh lại có sốt rét tăng như Quảng Trị (8,26%), Thừa Thiên-Huế (10%), Đăk Nông (6,67%); có 3 ca TVSR ở Gia Lai, Đăk Lăk và Đăk Nông.
Tháng 8/2006 BNSR tăng ở các tỉnh Quảng Bình (7,89%), Bình Định (63,27%), Gia Lai (28,48%), Đăk Lăk (31,53%) và 3 ca TVSR ở Phú Yên, Gia Lai và Đăk Lăk.
Tháng 9/2006 có 14 trường hợp TVSR tại Quảng Bình (1), Quảng Ngãi (1), Bình Định (2), Phú Yên (1), Bình Thuận (1), Gia Lai (2) và Đăk Lăk (6).
Tháng 10/2006 có 2 tử vong do sốt rét tại Gia Lai (1) và Dak Lak (1) nâng số TVSR trong 10 tháng đầu năm lên 22 trường hợp cao hơn so với cùng kỳ và cả năm 2005 (13).
Tháng 11-12/2006 là thời điểm đỉnh cao mùa bệnh, cùng với ảnh hưởng của cơn bão Xangsane ở 7 tỉnh miền Trung nên dự báo số BNSR và TVSR sẽ còn tiếp tục tăng cao, nguy cơ bùng phát sốt rét trên diện rộng là rất lớn.
2. Kết quả giám sát dịch tễ sốt rét và tử vong sốt rét:
2.1. Giám sát dịch tễ sốt rét:
Để nhận định nguyên nhân gia tăng sốt rét và hỗ trợ các tỉnh trong khu vực khống chế nguy cơ sốt rét gia tăng; Viện đã tiến hành điều tra dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng, giám sát biện pháp phòng chống vectơ (số màn hiện có, tỷ lệ ngủ màn, chất lượng phun tẩm hóa chất) và biện pháp điều trị BNSR ở 21 điểm đại diện cho các vùng dịch tễ sốt rét.
Kết quả khám và xét nghiệm 7.986 người phát hiện 138 ca sốt lâm sàng (1,73%) và 124 KSTSR (1,56%). Trong 21 điểm điều tra chỉ có Thị trấn Ea Súp (Đăk Lăk) là có tỷ lệKSTSR cao (9,9%), số điểm còn lại các ca bệnh xuất hiện rải rác (5-10 ca/điểm) do nhiễm bệnh từ rẫy về.
|
Viện tiến hành điều tra dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng, giám sát biện pháp phòng chống vectơ cho các tuyến cơ sở |
Phân tích nơi nhiễm bệnh qua 577 BNSR tại một số huyện thấy 431 BNSR bao gồmcả trẻ em < 5 tuổi thường xuyên đi rừng và ngủ rẫy (76%), phát hiện bệnh chủ động tại một số hộ gia đình thấy nhiều BNSR không đến cơ sở y tế điều trị .
Kết quả điều tra côn trùng bằng 5 phương pháp thường quy tại các điểm rẫy (cách buôn làng khoảng 10-15 km) đều bắt được 2 vectơ chính An.minimus và An.dirus mật độ cao, có nơi bắt được 49 con An.dirus (Ea Sup-Đăk Lăk), các điểm điều tra gần buôn làng phát hiện An.minimus mật độ thấp hơn.
Số màn hiện có trong dân được cung cấp đủ bởi Chương trình quốc gia PCSR hoặc Dự án Quỹ toàn cầu PCSR (2,5 người/màn), nhưng tỷ lệ ngủ màn của đồng bào dân tộc thiểu số một số nơi rất thấp (30%); tỷ lệ tẩm màn đạt < 80%, có nơi chỉ đạt 50-60% chưa đảm bảo yêu cầu phòng chống muỗi đốt.
Phân tích các yếu tố vi khí hậu 9 tháng/2006 ở Đăk Lăk thấy nhiệt độ trung bình 24,50C (21,35 - 26,7), ẩm độ trung bình 80,5% (75 - 85,5%), lượng mưa 1367 mm (9 tháng/2005 là 1188) và tổng số ngày mưa là 125 (9 tháng/2005 là 106) có sự thay đổiso với các năm trước đây thuận lợi cho trung gian truyền bệnh sốt rét phát triển mạnh.
2.2. Giám sát tử vong sốt rét:
Đối tượng tử vong: 3 trường hợp <15 tuổi (13,64%) và 19 trường hợp >15 tuổi (86,36%); 6 trường hợp là đồng bào thiểu số (27,27%) và 16 trường hợp là người kinh (72,73%).
Thời gian từ khi khởi bệnh đến khi nhập viện trước 3 ngày có 6/22 trường hợp chiếm 27,27%; 16/22 ca tử vong chiếm 72,73% nhập viện muộn sau 3 ngày.
Phân tích thời gian tử vong cho thấy: tử vong trước 24 giờ 10/22 trường hợp (45,45%), tử vong sau 24 giờ 12/20 trường hợp (54,55%). Nguyên nhân đến cơ sở y tế muộnlà do người dân thiếu hiểu biết về bệnh (54,55%); chuyên môn cán bộ y tế các tuyến chẩn đoán chưa chính xác (45,45%)
21/22 trường hợp (95%) TVSR có mật độ P.falciparum cao (+++) ® (++++) do chưa được điều trị đặc hiệu trước đó, nhất là tuyến xã một số nơi không có Artesunate dạng tiêm để sơ cứu cho các trường hợp sốt rét nặng hoặc SRAT trước khi chuyển viện.
14/22 trường hợp (63,644%) có biến chứng đa phủ tạng như hôn mê sâu, truỵ tim mạch, suy gan, suy thận.... là hậu quả của việc không được phát hiện và điều trị từ đầu.
13/22 trường hợp (59,09%) liên quan đến đi rừng, ngủ rẫy; 90,91% số tử vong sốt rét là người dân ở vùng không có sốt rét lưu hành hoặc lưu hành thấp (thành phố, thị xã, thị trấn, đồng bằng, trung du...) bị nhiễm bệnh do giao lưu với vùng sốt rét lưu hành nhưng không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị khi có sốt.
3. Nguyên nhân gia tăng sốt rét và tử vong sốt rét:
3.1. Nguyên nhân khách quan:
Trung gian truyền bệnh chính An.minimus có xu hướng phục hồi tại các vùng thu hẹp diện bảo vệcùng với sự phát triển mạnh An.dirus làm tăng khả năng lan truyền bệnh.
Bệnh nhân nhập viện quá muộn sau khi phát bệnh từ 3-10 ngày sau quá trình mua thuốc tự điều trị hoặc điều trị tư không khỏi dẫn đến các biến chứng muộn, quá khả năng cấp cứu của các tuyến bệnh viện.
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Giám sát dịch tễ ở một số địa phương được thực hiện thường xuyên, nhưng thiếu nhậy cảm dịch tễở những nơi có tỷ lệ bệnh giảm thấp.
Chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét tại các tuyến chưa hiệu quả: tuyến tỉnh nhiều năm không điều trị SRAT nên xử lý còn lúng túng, tuyến huyện chẩn đoán nhầm nên bệnh nhân không được điều trị sớm dẫn đến tử vong.
Chưa có biện pháp PCSR khả thi cho nhóm dân đi rừng/ngủ rẫy và dân di cư tự do: biện pháp phun tồn lưu hóa chất mới bảo vệ được cho dân trong buôn làng, biện pháp tự điều trị (Stand-by Treatment) chưa hiệu quả.
Tuyến y tế cơ sở (xã/thôn buôn) chưa kiểm soát được BNSR, nhất là với các đối tượng đi rừng, ngủ rẫy; khoảng 50% điểm kính hiển vi xã không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ chẩn đoán, điều trị BNSR.
Tuyến huyện mới được chia tách thành 3 đơn vị y tế chưa có sự phối hợp đồng bộ để đối phó với tình hình sốt rét gia tăng, hoạt động PCSR hoàn toàn do Trung tâm YTDP huyện chịu trách nhiệm trong khi phải kiêm nhiệm nhiều chương trình y tếkhác và đội ngũ cán bộ mỏng (có nơi chỉ có 2-3 cán bộ chuyên môn) nên việc triển khai thực hiện các biện pháp PCSR và giám sát dịch tễ sốt rétrất khó khăn.
Người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành; các cấp, các ngành kể cả các đơn vị y tế chuyên khoa chủ quan sau nhiều năm sốt rét giảm thấp.
II. CÁC GIẢI PHÁP KHỐNG CHẾ SỐT RÉT GIA TĂNG:
1. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện:
Để ngăn chặn sự bùng phát của sốt rét trên diện rộng, Viện đã có Công văn số 295/VSR-DT ngày 25/9/2006 dự báo nguy cơ bùng phát sốt rét ở một số tỉnh miền Trung-Tây Nguyên; đồng thời thành lập Ban chỉ đạo Phòng chống sốt rét và thiên tai bão lụt thường trực chỉ đạo vàtriển khai phòng chống sốt rét tại các nơi có sốt rét gia tăng, báo cáo và đề xuất với Bộ Y tếphương án hỗ trợ vật tư, kinh phí phòng chống dịch cho các vùng bị thiên tai bão lụt và các vùng sốt rét trọng điểm.
Nhiều đoàn giám sát và chỉ đạo của Viện đã phối hợp với Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP tỉnh chỉ đạo và giám sát các điểm nóng, các vùng có sốt rét gia tăng.
Lãnh đạo Viện khảo sát thực địa và làm việc với Sở Y tế, Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Ytế dự phòng các tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Kon Tum và Bình Định thống nhất chỉ định biện pháp khống chế sốt rét gia tăng, tử vong sốt rét và nhu cầu hóa chất diệt muỗi, thuốc chống sốt rét, kinh phí hỗ trợ phòng chống dịch.
Lãnh đạo Cục Y tế dự phòng Việt Nam-Bộ Y tế đánh giá tình hình phòng chống sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, làm việc với Sở Y tế, Trung tâm PCSR Bình Định và khảo sát thực tế tình hình sốt rét gia tăng và hoạt động PCSR tại huyện Vĩnh Thạnh.
Lãnh đạo Bộ Y tế tổ chức cuộc họp với các Viện Sốt rét-KST-CT và các Cục/Vụ liên quan nhận định tình hình sốt rét 2006 nhiều diễn biến phức tạp, số TVSR tăng so với cùng kỳ năm trước do chưa có biện pháp phòng chống hiệu quả cho nhóm dân ngủ rẫy, đi rừng; chỉ đạo tăng cường khống chế sốt rét và TVSR trong các tháng cuối năm.
2. Các biện pháp phòng chống sốt rét bổ sung:
2.1. Phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét:
Các tuyến bệnh viện cần xét nghiệm KSTSR cho tất cả các trường hợp có sốt tránh bỏ sót chẩn đoán cho bệnh nhân đi từ vùng sốt rét lưu hành về.
Các tuyến y tế (huyện/xã/thôn bản) tăng cường phát hiện, giám sát và điều trị sớm BNSR, các vùng có nguy cơ xảy dịch thành lập các đội điều trị (2 cán bộ/đội) chủ động tìm bệnh nhân sốt rét điều trị tại cộng đồng.
Cấp một liều thuốc sốt rét và hướng dẫn cách dùng cho người đi rừng, ngủ rẫy xa cơ sở y tế để họ tự điều trị khi có sốt trước khi đến có sở y tế.
Chú trọng điều trị cắt cơn sốt bằng các thuốc hiệu lực cao (CV8, artesunat) và điều trị diệt giao bào bằng Primaquin.
Tuyến xã điều trị artesunate ống cho bệnh nhân SRAT trước khi chuyển lên tuyến trên.
2.2. Phòng chống vectơ
Chỉ định phun bổ sung đợt 2/2006 tại các thôn giáp ranh với rừng, nhà rẫy và các nhà của dân di cư tự do và những nơi chất lượng tẩm đạt <80%. Tẩm màn bổ sung cho một số xã chưa đạt trong đợt 1/2006 hoặc bị ảnh hưởng của bão lụt.
Tăng cường vận động người dân mang màn khi đi rừng và ngủ rẫy.
Các tỉnh đã lập kế hoạch những vùng cần phun tẩm bổ sung để có kế hoạch cung cấp hóa chất, vật tư, triển khai phun bổ sung đợt 2/2006 đảm bảo độ bao phủ và chất lượng.
2.3. Truyền thông giáo dục
Vận động người dân đến trạm y tế khám và điều trị khi có sốt, nhận thuốc tự điều trị khi đi xa cơ sở y tế; tối phải ngủ màn và mang theo màn nằm khi đi vào rừng/rẫy.
Các thông điệp truyền thông nên ngắn gọn, dễ hiểu.
2.4. Hỗ trợ cơ số thuốc sốt rét, hóa chất diệt muỗi và kinh phí phòng chống dịch
Do tình hình sốt rét có diễn biến phức tạp, số tử vong sốt rét gia tăng, Bộ Y tế và Dự án QGPCSR đã hỗ trợ một số vật tư, hóa chất và kinh phí phòng chống dịch cho các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên như sau (có bảng phụ lục kèm theo);
Thuốc sốt rét các loại: 6.500 ống Artesunate 60mg, 3.054 viên CV8, 24.000 viên primaquine 13,2mg.
Hóa chất phun tẩm bổ sung gồm700 lít Fendona phun tồn lưu bảo vệ cho 148.000 dân, 520 lít ICON tẩm màn bảo vệ cho 79.100 dân.
Ngoài thuốc sốt rét và hóa chất, các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên còn được hỗ trợ 100.000.000 đồng góp phần vào triển khai các hoạt động phòng chống bệnh sốt rét tại các địa phương có sốt rét tăng và bị ảnh hưởng của bão lụt.
3. Diễn biến sốt rét cho đến thời điểm hiện nay:
Các địa phương ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã sử dụng thuốc, hóa chất và kinh phí phòng chống dịch triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét bổ sung tại các vùng trọng điểm, có số mắc sốt rét và chết sốt rét gia tăng.
Nhận định sơ bộ tình hình sốt rét theo báo cáo nhanh của các tỉnh trong tháng 10-11/2006 thấy:
Tình hình sốt rét trong khu vực ổn định sau khi triển khai các biện pháp khống chế, bảo vệ dân tại các vùng có gia tăng sốt rét.
Số TVSR có xu hướng giảm thấp từ tháng 9/2006 (14 ca) đến tháng 10 (2 ca) và tháng 11 (không có TVSR).
Các tỉnh trọng điểm (Tây Nguyên, Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam) số mắc sốt rét tiếp tục giảm và chưa xuất hiện thêm TVSR.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận:
Bệnh sốt rét và tử vong tăng ở nhiều huyện so với cùng kỳ năm 2005 nhưng chưa phát triển thành dịch vì bệnh nhân nhiễm bệnh rãi rác từ nhiều nơi khác nhau, đặc biệt là từ khu vực các nhà rẫy, cường độ mắc và sự lan truyền tại chỗ không cao vì vùng tại chỗ đã được tác động bằng các biện pháp bảo vệ có hiệu quả
Phần lớn tử vong sốt rét do nhập viện muộn, là người sống ở vùng sốt rét lưu hành thấp hoặc không có sốt rét, không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Thách thức hiện nay là làm thế nào để bảo vệ ngăn chặn sự nhiễm bệnh một cáchhiệu quả cho đối tượng đi rừng, ngủ rẫy, xa cơ sở y tế cũng như phòng chống bệnh cho các cộng đồng di cư tự do đến định cư tại các vùng sốt rét lưu hành.
2. Đề nghị:
2.1.Về phía các Viện
Tăng cường hoạt động giám sát và chỉ đạo kỹ thuật về các lĩnh vực dịch tễ, ký sinh trùng và côn trùng tại các vùng trọng điểmđể giúp y tế huyện và tỉnh tiếp tục khống chế tình hình gia tăng sốt rét.
Hỗ trợ các thuốc chống sốt rét có hiệu lực cao để kịp thời điều trị bệnh nhân sốt rét, tài liệu truyền thông và các trang bị hoạt động cần thiết.
Phối hợp với tỉnh đào tạo lại cho cán bộ y tế các tuyến để đảm bảo khả năng phát hiện và quản lý bệnh nhân sốt rét, đồng thời tìm kiếm các dự án khả thi trong nghiên cứu biện pháp hạ thấp tỷ lệ bệnh thực hiện tại huyện trong vòng 2-3 năm, nhằm góp phần làm ổn định vững chắc tình hình sốt rét.
2.2.Về phía Dự án QGPCSR
Cần cấp kinh phí và vật tư, hóa chất kịp thời để các địa phương có thể triển khai khống chế sốt rét những nơi có biến động trong những tháng đầu năm 2007.
Cung cấp kính hiển vi mới hoặc thay thế phụ tùng cần thiết cho những kính có hư hỏng.
2.3.Về phía các tỉnh:
UBND tỉnh và huyện nên hỗ trợ thêm kinh phí hoạt động cho cán bộ y tế công tác ở vùng sâu, vùng xã.
Cán bộ y tế của huyện và tỉnh tăng cường giám sát tại các xã trọng điểm sốt rét giúp y tế cơ sở có khả năng phát hiện và điều trị BNSR.
Tuyến bệnh viện huyện và tỉnh chú trọng công tác chẩn đoán và điều trị sốt rét ác tính đúng theo phác đồ của Bộ y tế; chỉ đạo và giám sát tuyến dưới thực hiện đúng quy định trong phát hiện, chẩn đoán và điều trị sốt rét.
Tăng cường biên chế cho Trạm y tế xã, nhất là xét nghiệm viên các điểm kính hiển vi để đảm bảo phát hiện và điều trị sớm KSTSR ngay từ cơ sở.
Củng cố và xây dựng màng lưới y tế thôn nóc, quy định lại chức năng nhiệm vụ cho y tế cơ sở để đảm bảo lựa chọn các vấn đề ưu tiên cho công tác phòng chống sốt rét. Y tế thôn bản truyền thông giáo dục, vận đông người dân đến cơ sở y tế khám và điều trị sốt rét ngay khi bị bệnh. Y tế thôn quản lý các đối tượng đi rừng ngủ rẫy xa cơ sở y tế, cấp thuốc tự điều trị khi họ đi rừng ngủ rẫy, hạn chế sốt rét ác tính khi mắc bệnh.,