Muỗi Culicidae là trung gian truyền một số bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não, giun chỉ bạch huyết…. Chúng tôi giới thiệu những đặc điểm về hình thái, tập tính, phân bố và vai trò y học của một số véc tơ truyền bệnh trong họ muỗi Culicidae nhằm giúp bạn đọc tham khảo, thông tin chưa thật đầy đủ, rất mong sự đóng góp của các đồng nghiệp.
Giới thiệu họ muỗi Culicidae
Họ Muỗi Culicidae thuộc Bộ Hai Cánh Diptera, Lớp Côn Trùng Insecta, Ngành Tiết túc Arthropoda. Họ Muỗi Culicidae có 3 họ phụ : Anophelinae (anophelines), Culicinae (culicines), Toxorhynchitinae. Muỗi có phân bố rộng trên toàn thế giới, chúng có mặt ở vùng nhiệt đới, ôn đới và mở rộng về vùng cực bắc, trong khoảng độ cao 5500 mét và sâu 1250 mét so với mặt nước biển.
Phân loại:
Họ muỗi Culicidae chia làm 3 họ phụ:
Họ phụ Anophelinae:
Giống Anopheles là trung gian truyền bệnh sốt rét, một số loài truyền bệnh giun chỉ, virus. Có khoảng 380 loài Anophelestrên thế giới, Việt Nam đã phát hiện 62 loài Anopheles (Bảng định loại muỗi Anophelineaở Việt Nam , 2006).
 |
Phân biệt muỗi Anophelines và Culicines |
Họ phụ Culicinae gồm các giống sau:
- Culex: có khoảng 550 loài đã được mô tả, đa số chúng sống ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, truyền bệnh giun chỉ, bệnh viêm não và một số bệnh virus.
- Aedes: Muỗi Aedes có khoảng 950 loài ở khắp nơi trên thế giới,Việt Nam đã phát hiện được 40 loài Aedes (Vũ Đức Hương, 1984), muỗi truyền bệnh sốt Dengue / sốt xuất huyết Dengue, bệnh sốt vàng, bệnh virus, giun chỉ, bệnh viêm não.
- Mansonia: Giống Mansonia có khoảng 25 loài, sống ở vùng nhiệt đới, truyền bệnh giun chỉ Brugia.
- Haemagogus và Sabethes: truyền bệnh sốt vàng vùng rừng rậm ở Trung và Nam Mỹ.
Họ phụ Toxorhynchitinae
Có khoảng 66 loài, là những loài muỗi không ký sinh, ấu trùng của chúng ăn các loài bọ gậy trong nước, thậm chí còn ăn thịt các bọ gậy đồng loại. Muỗi trưởng thành không ăn, sống trong các rừng rậm nhiệt đới.
Giống muỗi Anopheles
Trên thế giới có khoảng 380 loài Anopheles. Có khoảng 60 loài đốt máu người và có thể truyền sốt rét. Một số loài Anopheles khác là trung gian truyền bệnh giun chỉ (Brugia malayi, Brugia timori và Wuchereria bancrofti ) và các bệnh virus.
Đặc điểm hình thể muỗi Anopheles :
Hình thể muỗi Anopheles khác các loài muỗi Culex, Aedes, Mansonia, chiều dài của pan bằng chiều dài của vòi, trên cánh muỗi có các vẩy đen trắng, muỗi đậu chếch một góc 45o so với giá thể. Anopheles culicifacies, một loài truyền bệnh ở Nam Á là một ngoại lệ, khi muỗi đậu thân gần như song song với giá thể, nhìn gần giống như muỗi Culex. | |
Hình thể muỗi Anopheles | Trứng muỗi Anopheles |
Trứng Anopheles:
- Trứng Anopheles được đẻ từng chiếc, trứng có hai phao ở hai bên, nổi trên mặt nước cho tới khi nở.. Trứng nở sau 2-3 ngày. Ở vùng nhiệt đới, thời gian từ khi trứng nở tới khi muỗi trưởng thành khoảng 11-13 ngày.
Bọ gậy Anopheles:
Bọ gậy Anopheles không có ống xiphông, nằm ngang trên mặt nước. Nơi cư trú của bọ gậy thay đổi theo từng loài, nhưng đa số chúng thích nơi có ánh sáng mặt trời, nước đọng haychảy chậm, hai bên bờ có cây cỏ, rong rêu.
 |  |
Bọ gậy muỗi Anopheles | Hình thể quăng Anopheles |
Quăng Anopheles:
Quăng muỗi Anopheles có hình dấu hỏi lớn, ở trên đầu có ống thở hình phễu.
Vai trò y học:
- Vai trò y học quan trọng nhất của muỗi Anopheles là truyền bệnh sốt rét. Mỗi vùng, mỗi nước có một số loài muỗi truyền sốt rét chủ yếu.
|
Cơ chếtruyền kí sinh trùng sốt rét Plasmodium (Nguồn: malaria-world.org ) |
Phân bố:
Muỗi Anopheles phân bố rộng khắp trên thế giới, Ở Việt Nam có 62 loài muỗi Anopheles trong đó khoảng 10 loài Anopheles có vai trò truyền bệnh sốt rét, quan trọng nhất là An. minimus, An. dirus, An. epiroticus và An. subpictus.
Muỗi Anopheles minimus
An. minimus là muỗi truyền bệnh sốt rét chủ yếu ở Việt Nam.
Đặc điểm hình thể:
- An. minimus là một loài muỗi đa hình, từ năm 1938 Toumanoff đã thấy có 2 kiểu cánh khác nhau, có điểm đen gốc costa gián đoạn và không gián đoạn, trong mỗi kiểu cánh này lại có nhiều chi tiết khác nhau ở gân cánh. Ngày nay các nhà khoa học Việt Nam và thế giới dùng những kỹ thuật hiện đại đã xác định được 3 kiểu hình và 5 kiểu gen khác nhau của An. minimus. Hình thể muỗi An. minimus có những đặc điểm sau: Muỗi nhỏ, màu đen, chân đen, pan có 3 băng trắng, băng đen cạnh băng trắng đỉnh pan hẹp. Gân cánh costa có 4 điểm đen. Điểm đen trước mút L1 không có gián đoạn trắng và thường dài bằng điểm đen tương ứng trên gân costa. L6 thường có 2 điểm đen, mút L6 thường không có diềm trắng. Gốc L1 chỉ có vẩy trắng hoặc vẩy màu kem.
|
Anophelesminimus |
Đặc điểm sinh học:
- An. minimus thích đốt máu người, kết quả phản ứng ngưng kết huyết thanh cho thấy 67,7-91,2% muỗi có đốt máu người. An. minimus hoạt động đốtmáu về đêm, cao điểm từ 20 giờ đến 2 giờ, về mùa đông có thể sớm hơn. Nơi trú ẩn tiêu máu: muỗi thường đậu trong nhà, gầm giường, góc tủ, nơi treo vắt quần áo, muỗi đậu cao không quá 2 m so với sàn nhà. Ở những nơi phun DDT nhiều năm liền hoặc nơi mới khai phá muỗi An. minimus trú ẩn tiêu máu ngoài nhà. Ổ bọ gậycủa An. minimus: thường ở suối nước trong, chảy chậm, hai bên bờ suối có cỏ, có ánh nắng chiếu trực tiếp, ở các ruộng bậc thang và các mương máng nước chảy. Tuy nhiên muỗi An. minimus cũng có thể đẻ vào các chum vại nước ăn, bể chứa nước mưa... Trong vụ dịch sốt rét ở Gia Lâm, Hà Nội năm 1957, 50-60% các bể chứa nước của gia đình có bọ gậy An. minimus.Mùa phát triển của muỗi An. minimus thường vào đầu và cuối mùa mưa, phụ thuộc vào khí hậu của từng miền. Miền Bắc: An. minimus phát triển trong mùa mưa, có 2 đỉnh cao trong năm: tháng 4- 5 và tháng 9-10 (Nguyễn Thọ Viễn, 1968), vào các tháng 6-7-8 do mưa nhiều, mưa to nước cuốn trôi hết bọ gậy, mật độ muỗi giảm.Tây Nguyên: muỗi phát triển quanh năm, đỉnh cao vào cuối mùa khô và đầu mùa mưa (Nguyễn Đức Mạnh, 1977, 1988). Vân Canh, Bình Định: muỗi phát triển quanh năm, đỉnh cao vào các tháng 3, 4, 5 và tháng 9, 10, 11, 12 (Nguyễn Thọ Viễn và cs, Lê Khánh Thuận và cs, 2000). Miền Đông Nam Bộ: mật độ muỗi tăng cao vào tháng 12, vào mùa khô. Ở Việt Nam An. minimus còn nhạy cảm với DDT, nhưng ở những vùng phun DDT nhiều năm liền, muỗi thay đổi sinh thái, đốt máu trong nhà nhưng bay ra trú ẩn ngoài nhà. (Nghiên cứu tại Đồng Nai, Vân Canh, Bình Định, Nguyễn Thọ Viễn và cs, 1976, 1991). Khi ngừng phun DDT một thời gian, mật độ muỗi được phục hồi và tăng sức đề kháng với DDT.
 |
Sinh cảnh ổ bọ gậy An. minimus |
Vai trò y học:
An. minimus đã được xác định có vai trò truyền bệnh sốt rét ở nhiều vùng trong nước. Tỷ lệ nhiễm nhiễm ký sinh trùng sốt rét tự nhiên 1,4 - 4%, trong các vụ dịch sốt rét mổ muỗi đều thấy có ký sinh trùng sốt rét. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét thực nghiệm 62- 72%.
Phân bố:
Ở Việt Nam An. minimus phân bố ở các vùng savan đồi núi, rừng thưa, ven rừng rậm.
Phòng chống:
Ở vùng đồng bằng có thể sử dụng cá, mesocyclop hoặc vi khuẩn Bacillus để diệt bọ gậy muỗi An. minimus. Ở vùng rừng núi thường dùng các hoá chất để diệt muỗi, hiện nay hai hóa chất thuộc nhóm pyrethroid là Fendona và Icon được dùngđể tẩm màn và phun tồn lưu phòng chống sốt rét.Các biện pháp cải tạo môi trường, bảo vệ cá nhân, dùng màn tẩm hoá chất xua và diệt muỗi, thường xuyên dọn vệ sinh, phát quang bụi rậm, khơi thông dòng chảy ở cống rãnh, suối nước quanh nơi ở để phá nơi trú ẩn, nơi đẻ của muỗi, là một biện pháp rất quan trọng làm giảm mật độ muỗi.
Muỗi Anopheles dirus
An. dirus thuộc nhóm An. leucosphyrus, là một phức hợp gồm 14 loài, trong đó có An. dirus. An. dirus phân bố rất rộng rãi ở Banglades , Myanma, Campuchia, Ấn Độ, Lào, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Việt Nam ... ở Việt Nam trong nhóm An. leucosphyrus còn có loài An. takasagoensis chưa phát hiện có vai trò truyền bệnh sốt rét .  |
Anopheles dirus |
Đặc điểm hình thể:
An. dirus là muỗi kích thước trung bình, màu nâu đen, chân có nhiều đốm trắng, khớp cẳng - bàn chân sau có băng trắng rộng. Điểm đen presector trên gân L1 kéo dài về phía gốc cánh hơn điểm đen tương ứng trên gân costa.
Đặc điểm sinh học:
An. dirus thích đốtmáu người, khi không có người chúng đốtmáu động vật, muỗi có tập tính rình mồi trước khi đốt máu.Muỗi hoạt động đốt máu vào ban đêm, cao điểm từ nửa đêm về sáng, thường đốt máu người trong và ngoài nhà, trú ẩn tiêu máu ngoài nhà. Muỗi phát triển vào mùa mưa, đỉnh cao vào các tháng mưa nhiều. Ổ bọ gậycủa An. dirus là các vũng nước đọng trong rừng, trong các hốc cây, bẹ lá có nước, vỏ đồ hộp... đặc biệt ở những ổ nước nơi có bóng cây che phủ. |
Sinh cảnh An. dirus |
Vai trò y học:
An. dirus là loài muỗi truyền bệnh sốt rét chủ yếu ở vùng rừng núi Đông Nam Á và Việt Nam. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở Di Linh: 1,2-36,38%; Tây Ninh: 1- 10%; Vân Canh, Bình Định: 1,75%; Sông Bé: 1,4%. Các loài muỗi thuộc nhóm An.leucosphyrus còn truyền ký sinh trùng sốt rét cho khỉ, truyền giun chỉ cho người.
Phân bố:
An. dirus sống hoang dại trong các rừng già bằng phẳng có nhiều bóng râm. Ở Việt Nam, muỗi phân bố từ miền tây Thanh Hóa đến cuối dãy Trường Sơn, gặp nhiều ở vùng rừng bằng, rừng trồng cây cao su...
Phòng chống:
An. dirus ở Việt Nam còn nhạy cảm với các hóa chất thuộc nhóm pyrethroid,.Các biện pháp diệt muỗi trưởng thành gặp nhiều khó khăn vì muỗi sống ngoài nhà. Có thể sử dụng các hoá chất thuộc nhóm pyrethroid phun tồn lưu hoặc tẩm màndiệt muỗi trưởng thành ... Để phòng chống muỗi, thường kết hợp biện pháp diệt bọ gậy với vệ sinh cải tạo môi trường, triệt phá nơi sinh đẻ, nơi trú ẩn của muỗi. Phát quang tạo khoảng trống quanh nhà, đẩy lùi nơi trú ẩn của muỗi cách xa khu vực người ở.
Muỗi Anopheles subpictus
An. subpictus là muỗi truyền ký sinh trùng sốt rét ở ven biển Việt Nam. Vùng dịch tễ do An. subpictus truyền bệnh có tỷ lệ P.vivax cao 90 - 100%.
Đặc điểm hình thể:
An. subpictus là muỗi có kích thước trung bình.Gân cánh costa có trên 3 điểm đen. Chân muỗi không có các vẩy đen trắng, có màu đồng nhất. Trên pan có 3 băng trắng, băng trắng đỉnh pan dài không quá 2,5 chiều dài băng đen dưới đỉnh, vòi đen.
Đặc điểm sinh học:
An. subpictus trú ẩn trong nhà, chuồng gia súc, hoạt động đốt máu vào ban đêm, thích đốt máu gia súc hơn máu người.Theo Toumannoff muỗi thu thập ở trong nhà, tỷ lệ đốt máu người thấp (9,5%), tỷ lệ đốt máu súc vật cao (90,5%). Nơi đẻ của muỗi là vùng nước lợ ven biển từ Bắc vào Nam, hàm lượng muối thích hợp 5-7g/l, có thể gặp bọ gậy ở những nơi có độ mặn cao hoặc thấp hơn. Ở miền Bắc mật độ muỗi An. subpictus cao ở vùng cách bờ biển từ 1- 4km, ở các cửa sông lớn do nước triều lên có thể thấy muỗi An.subpitus ở cách bờ biển 7 - 10 km, hoặc xa hơn. Ở miền Nam đặc biệt là các tỉnh miền Tây Nam Bộ, muỗi phân bố rộng rãi hơn do nước biển vào sâu trong đất liền. Mùa phát triển của muỗi tuỳ thuộc vào từng khu vực địa lý, ở miền Bắc cao điểm vào các tháng 6,7 và 9,10, ở miền Nam cao điểm vào các tháng đầu mùa mưa tháng 4-8.
Vai trò truyền bệnh:
An. subpictus là muỗi truyền bệnh sốt rét ở vùng ven biển cả nước, cùng vớiAn. epiroticus ở ven biển miền Nam, tạo lên vùng sốt rét lưu hành.
Phân bố:
An. subpictussống ở vùng nước lợ, phân bố dọc ven biển trên toàn quốc.
Biện pháp phòng chống:
An. subpitus đã được thông báo kháng với DDT.Ở những vùng An. subpitus đã kháng DDT có thể dùng các hoá chất thuộc nhóm pyrethroid để diệt muỗi. Muỗi An. subpitus thích đốt máu trâu, bò nên làm các chuồng trâu bò xung quanh làng có tác dụng như hàng rào thu hút muỗi để hạn chế muỗi đốt máu người. Muỗi trú ẩn trong nhà, nếu nhà cửa thoáng mát, sáng sủa…có thể hạn chế nơi trú ẩn của muỗi.
Muỗi Anopheles epiroticus
An. epiroticus là vector truyền sốt rét ở ven biển miền Nam Việt Namvà Campuchia.
Đặc điểm hình thể:
Muỗi có kích thước trung bình. Chân có các vẩy đen trắng.Vòi màu đen, pan có 3 băng trắng, pan trắng ở đỉnh pan rộng, đốt pan II không có điểm trắng ở mặt lưng. Gân cánh costa có trên 3 điểm đen. Gân cánh số 6 có 2 điểm đen.
Đặc điểm sinh học:
An. epiroticus thích đốtmáu người ở trong nhà, hoạt động đốt máu suốt đêm, đỉnh cao vào khoảng 22-2 giờ sáng tuy nhiên muỗi có thể đốt máu cả ban ngày ở những nhà ẩm thấp, thiếu ánh sáng. Muỗi trú ẩn ở trong nhà. Tỷ lệ muỗi thu thập trong nhà 99,1% chỉ có 0,9% thu thập ở chuồng gia súc. Muỗi đẻ trứng ở ao, ruộng, kênh, rạch có nhiều rong tảo, độ pH từ 6-8, nồng độ muối thích hợp 7g/l, tuy nhiên có thể thu thập bọ gậy này ở các ổ nước có nồng độ muối từ 0,3-28g/l. Mùa phát triển của muỗi quanh năm, nhưng cao điểm vào các tháng đầu mùa mưa (tháng 5- 6).
Vai trò y học:
An. epiroticus là vector chính truyền bệnh sốt rét ở ven biển miền Nam Việt Nam. Muỗi An. epiroticus có thể truyền cả P.falciparum và P.vivax. nhưng ở vùng phân bố muỗi này tỷ lệ nhiễm P.falciparum cao hơn.
Phân bố:
Vùng phân bố của muỗi An. epiroticus thường gặp cả muỗi An. subpictus. Ở Việt Nam muỗi An. epiroticus phân bố từ ven biển Hàm Tân, Bình Thuận tới vùng ven biển Campuchia. Ở đồng bằng sông Cửu Long muỗi phân bố rộng ở những nơi có nước thuỷ triều lên xuống.
Biện pháp phòng chống:
Muỗi An. epiroticus còn nhạy cảm với DDT và các hoá chất diệt côn trùng, nhưng ở một vài nơi đã có hiện tượng An. epiroticus kháng, tăng sức chịu đựng với hoá chất diệt.
Một số véc tơ truyền bệnh sốt rét phụ
An.maculatus:
An.maculatus phân bố rộng từ đồng bằng, ven biển đến miền núi, muỗi đốt cả máu người và động vật, sống hoang dại, phát triển quanh năm, đỉnh cao vào mùa mưa. Tỷ lệ muỗi An.maculatus nhiễm thoa trùng từ 0,51-2,7% (Toumanoff, 1936) và 0,03% (Nguyễn Thượng Hiền, 1968).
An.aconitus:
An. aconitus phân bố rộng từ đồng bằng, ven biển đến miền núi. Muỗi đốt cả máu người và động vật, muỗi sống hoang dại, phát triển quanh năm, đỉnh cao vào mùa mưa. An.aconitus là muỗi truyền bệnh sốt rét chủ yếu ở vùng đồng bằng Java Indonesia (Reid 1968).
An.jeyporiensis:
Theo Đặng Văn Ngữ (1962), muỗi An.jeyporiensis là muỗi truyền ký sinh trùng sốt rét thứ yếu ở vùng miền Bắc. Đây là loài muỗi có phân bố rất rộng ở vùng rừng núi trong cả nước. Muỗi thích đốt máu người và trú ẩn trong nhà. Muỗi phát triển quanh năm nhưng cao nhất vào mùa mưa.Tỷ lệ mang ký sinh trùng sốt sét ở Việt Nam là 0,72% (Toumanoff, 1931), 0,75% (Nguyễn Thượng Hiền, 1968). Loài này còn truyền bệnh giun chỉ ở Trung Quốc.
Giống muỗi Culex
Đặc điểm hình thể:
- Trứng muỗi hình bầu dục, dính thành bè nổi trên mặt nước. Bọ gậy có ống thở nhỏ, dài và thẳng. Quăng Culex hình dấu hỏi, có ống thở hình ống. Muỗi trưởng thành đậu song song với mặt tường, có màu nâu đậm hoặc nâu nhạt, gân cánh một màu, pan dài bằng 1/5 - 1/6 chiều dài của vòi. |
Vòng đời muỗiCulex |
Vai trò y học:
Culex quinquefasciatus truyền bệnh giun chỉ Wuchereria bancrofti.Culex tritaeniorhynchus truyền bệnh viêm não Nhật Bản ở châu Á.
Phân bố:
Có 550 loài Culex được mô tả, đa số ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở các nước đang phát triển, Culex quinquefasciatus rất phổ biến ở các đô thị nơi mà hệ thống thoát nước và vệ sinh không được bảo đảm.
Muỗi Culex quinquefascilatus
Đặc điểm hình thể:
Trứng C.quinquefasciatus hình bầu dục thường dính thành bè nổi trên mặt nước nơi cống rãnh bẩn, mất vệ sinh. Bọ gậy C.quinquefasciatus thon dài, có ống thở nhỏ dài. Quăng C.quinquefasciatus hình dấu hỏi, có ống thở ở trên đầu hình trụ. Muỗi C.quinquefasciatus có màu nâu đậm hoặc nâu nhạt, chân và cánh không có khoang đen trắng.  |
Muỗi C.quinquefasciatus |
Đặc điểm sinh học:
C.quinquefasciatus đặc biệt thích đẻ ở những nơi nước bẩn có nhiều chất hữu cơ như chất thải, phân, cây mục, trứng kết lại thành bè nổi trên mặt nước.Muỗi đốt máu về ban đêm, rất thích đốt máu người, ít đốt máu súc vật. Ban ngày muỗi đậu nghỉ trong góc nhà, gầm giường, gầm tủ. Muỗi phát triển quanh năm, nhưng cao điểm vào mùa xuân hè. Ở Hà Nội muỗi này phát triển mạnh nhất vào các tháng 3-4-5 (Đặng Văn Ngữ, 1960).
Vai trò y học:
-C. quinquefasciatus truyền giun chỉ Wuchereria bancrofti cho người.
|
Bệnh nhân nhiễm giun chỉ Wuchereria bancrofti. |
Năm 1996 ước tính có khoảng 107 triệu người mắc 3 loài giun chỉ là Brugia malayi, Brugia timori và Wuchereria bancrofti, bệnh có tại nhiều vùng ở các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, các đảo Thái Bình Dương, Châu Phi, Trung và Nam Mĩ. Bệnh giun chỉ Wuchereria bancrofti chủ yếu do muỗi Culex quinquefasciatus truyền, ngoài ra ở một số nơi bệnh còn do một vài loài muỗi Anopheles vàAedes truyền.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Duy Toàn và cộng sự, 1983xét nghiệm máu cho 37.738 người thuộc 5 tỉnh đồng bằng sông Hồng, xác định được 2 loài là Brugia malayi và Wuchereria bancrofti có tỷ lệ nhiễm chung là 2,08%. Đỗ Dương Thái và cộng sự,1985 xét nghiệm máu cho 24.130 người thuộc 32 xã ở huyện Mỹ Văn, Hải Hưng thấy tỉ lệ nhiễm chung toàn huyện là 1,68%, xã có tỉ lệ nhiễm cao nhất là 7,43%, trong đó Brugia malayi chiếm 96,38% và Wuchereria bancrofti chiếm 2,93%, phối hợp cả 2 loài là 0,69%.
Phân bố:
C.quinquefasciatus có nhiều ở trong nhà, chuồng gia súc những vùng đông dân, nhà cửa thấp tối, điều kiện vệ sinh kém, quanh nhà có cống rãnh nước bẩn. Muỗi thường có ở các nước đang phát triển, phổ biến ở các đô thị phát triển nhanh, nơi hệ thống thoát nước và vệ sinh không được bảo đảm.
Phòng chống:
C.quinquefasciatus có sức chịu đựng cao với các hoá chất diệt côn trùng, vì vậy để phòng chống muỗi phải cải tạo điều kiện sống, vệ sinh nhà cửa, cống rãnh để triệt phá nơi trú ẩn, nơi sinh đẻ của muỗi. |
Phân bố của bệnh giun chỉ bạch huyết (WHO, 1992) |
Muỗi Culex Tritaeniorhynchus
Muỗi truyền bệnh viêm não B Nhật Bản ở vùng Đông Nam Á có nhiều loài thuộc giống Culex: C. tritaeniorhynchus, C. bitaeniorhynchus, C. gelidus, C. vishnui... Ở Việt Nam, muỗi C. tritaeniorhynchus có vai trò truyền bệnh viêm não B Nhật Bản
Đặc điểm hình thể:
C. tritaeniorhynchus có màu nâu đen, đùi sau không có vạch đen ở các giải mép lưng, trên bề mặt bụng vòi có các vẩy trắng kéo dài đến gốc. |
Muỗi Culextritaeniorhynchus |
Đặc điểm sinh học:
C. tritaeniorhynchus đốt máu về ban đêm, cả trong và ngoài nhà, thích đốt máu gia súc hơn máu người. Muỗi thường trú ẩn ở các bụi rậm, chuồng gia súc. Mùa phát triển của muỗi vào mùa nóng, ẩm. Ở Hà Nội muỗi phát triển mạnh từ tháng 5-11, cao điểm vào tháng 8-9.
Vai trò y học:
C. tritaeniorhynchus truyền bệnh viêm não B Nhật Bản, trẻ em rất dễ mắc, khi khỏi để lại những di chứng nặng nề.
Phân bố:
Việt Nam là nước nhiệt đới có nhiệt độ, độ ẩm rất thích hợp cho muỗi Culex tritaeniorhynchus phát triển. C. tritaeniorhynchus gặp nhiều ở vùng nông thôn, làng mạc đông dân có nhiều hồ, ao. |
Phân bố của bệnh Viêm não Nhật Bản ở Châu Á , 1970-1998 (Nguồn : Centers for Deasise Control and Prevention) |
Phòng chống:
Có nhiều biện pháp diệt muỗi, làm giảm mật độ muỗi như khai thông cống rãnh,cải tạo môi trường, dùng các thuốc xua diệt muỗi, hoặc dùng cácbiện pháp đấu tranh sinh học như thả cá, Mesocyclop ...vào ruộng cho ăn bọ gậy muỗi. Phòng chống muỗi đốt bằng cách bôi thuốc xua, tẩm thuốc xua diệt vào quần áo, nằm màn có tẩm hóa chất ...
Muỗi Mansonia
Mansonia phân bố chủ yếu ở các nước nhiệt đới, một số loài là trung gian truyền giun chỉ Brugia ở miền Nam Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Việt Nam.
Đặc điểm hình thể:
Trứng Mansonia hình bầu dục, thường bám thành từng chùm mặt dưới những lá của cây thuỷ sinh. Bọ gậy Mansonia thường cắm ống thở vào rễ cây thuỷ sinh để thở. QuăngMansonia có ống thở hình ống.Muỗi:oàn bộ muỗi có phủ các vẩy màu nâu sẫm và màu nâu nhạt.
 |  |
Trứng muỗi Mansonia | Muỗi Mansonia |
Đặc điểm sinh học:
Các loài muỗi Mansonia thường đẻ trứng thành từng đám, dính treo vào mặt dưới của cây hoặc gần sát mặt nước.Bọ gậy và quăng bám vào các thực vật thuỷ sinh để thở, chúng ở những nơi nước có thực vật thuỷ sinh như đầm lầy, mương máng có cỏ… bọ gậy thường bám vào mặt dưới các loài bèo. Các loài Mansonia thường đốt máu vào ban đêm, chủ yếu ở ngoài nhà, một số loài cũng vào nhà đốt máu, nhưng sau khi đốt máu muỗi thường trú ẩn tiêu máu ngoài nhà.
Vai trò y học:
Giống muỗi Mansonia có hai giống phụ: Mansonia Mansonioides và Mansonia Coquillettidia. Giống phụ Mansonia Coquillettidia có nhiều loài, trong đó M.(C). crassipes đã được xác định có vai trò truyền bệnh. Giống phụ Mansonia Mansonioides có nhiều loài có khả năng truyền bệnh, ở Việt Nam đã xác định 2 loài M.(M). annulifera và M.(M). uniformis có khả năng truyền bệnh giun chỉ. Nguyễn Duy Toàn và cộng sự (1992) đã xác định loài M.(M). indianatruyền bệnh giun chỉ ở Việt Nam.
Phân bố:
Muỗi phân bố chủ yếu ở những nước nhiệt đới, ở Việt Nam, muỗi Mansonia gặp nhiều nơi ao hồ có cây thuỷ sinh và nơi nuôi nhiều gia súc.
Phòng chống:
Dọn sạch ao hồ bằng cách thay nước, phát cây, cỏ quanh bờ, vớt bỏ những cây thuỷ sinh, bèo... để hạn chế muỗi đẻ, bọ gậy muỗi.Thả cá, Mesocyclop xuống ao hồ để ăn bọ gậy muỗi.Phòng chống muỗi đốt bằng cách nằm màn. Dùng hóa chất, kem xua để diệt muỗi.
Muỗi Aedes
Đặc điểm hình thể:
Trứng Aedes có kích thước nhỏ, khác với trứng muỗi Anopheles, Culex, trứng muỗi Aedes không có phao, không dính thành bè nổi trên mặt nước mà rời từng cáibám trên thành các dụng cụ chứa nước.
Cơ thể bọ gậy chia ra làm ba phần: đầu, ngực và bụng. Đặc điểm đặc trưng của bọ gậy Aedes là có một chùm lông nằm ở giữa ống thở. Tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng của ống thở gọi là chỉ số ống thở được sử dụng để định loại.
Quăng Aedes giống như một dấu hỏi, bên ngoài quăng được bao bọc một lớp vỏ màu xẫm nhưng có thể nhận thấy mầm của những phần phụ của muỗi trưởng thành sau này. Cơ thể quăng được chia làm hai phần: đầu ngực và bụng.
Muỗi Aedes có kích thước trung bình, thường có màu đen điểm nhiều vảy trắng nên được gọi là muỗi vằn. Cơ thể muỗi được chia ra làm ba phần đầu, ngực và bụng.Vòi muỗi có các vảyđen trắng. Ở giữa vòi của một số loài các vảy tập trung tạo thành một khoang trắng. Trên pan thường phủ vảy đen, trắng, một số loài vảy trắng tập trung tạo thành băng trắng ở đỉnh pan. Trên tấm lưng và tấm bên của ngực có phủ nhiều vảy và lông cứng, các vảy thường có màu đen, màu nâu hay màu trắng, các vảy trắng tập trung thành điểm trắng, băng trắng.Trong định loại muỗi Aedes, hệ thống lông, cách sắp xếp của các vẩy trên tấm lưng và tấm bên ngực là đặc điểm phân loại. Khác với nhiều giống muỗi khác, trong hệ thống lông trên tấm ngực giữa của muỗi Aedes không có lông lỗ thở mà chỉ có lông sau lỗ thở. Phần ngực mang một đôi cánh và ba đôi chân. Màng cánh không phủ vẩy mà chỉ có những lông nhỏ li ti. Tỷ lệ độ dài của phòng cánh trước và độ dài của phòng cánh saukhác nhau giữa các loài. Chân gồm 5 đốt, trên các phần của chân có phủ vẩy đen, trắng tập trung thành những điểm trắng hay khoang trắng đặc trưng cho một số loài. Tỷ số giữa các phần của chân và giữa các đốt bàn chânđược sử dụng làm chỉ số đặc trưng cho từng loài. Phần bụng có 10 đốt. Đốt 9 và đốt 10 của bụng tiêu giảm, tạo thành cơ quan giao phối. Trên tấm lưng hay tấm bụng thường được phủ vẩy đen trắng, ở đầu và cuối các đốt bụng các cụm vẩy trắng thường tập trung thành các băng ngang hình chữ nhật hay hình elip.
 |  |
Muỗi Aedes aegypti | Muỗi Aedes albopictus |
Đặc điểm sinh học:
Aedes đẻ trứng rời từng chiếc ở nơi ẩm ướt, ngay trên hoặc gần sát với mặt nước, nơi có nước lên xuống. Trứng chịu được độ khô trong nhiều tháng và chỉ nở khi bị ngập nước. Trứng Aedes có thể tồn tại qua mùa đông lạnh. Muỗi Aedes thích đốt máu người và động vật. Muỗi Aedes chủ yếu đốt mồi vào buổi sáng và buổi chiều. Đa số các loài đốt mồi và trú tiêu máu ngoài nhà, nhưng ở các thành phố nhiệt đới, Aedes aegypti đẻ trứng, đốt mồi, trú tiêu máu trong nhà và xung quanh nhà.
Vai trò y học:
Ở những nước nhiệt đới, muỗi Aedes aegypti là trung gian truyền bệnh Dengue, bệnh sốt xuất huyết, bệnh sốt vàng và các bệnh virus khác. Aedes albopictus cũng là trung gian truyền bệnh Dengue. Ở một số vùng Aedes có thể truyền bệnh giun chỉ. Bệnh sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue thường có ở các thành phố vùng Đông Nam Á.
|
Vòng đời của muỗi Aedes |
Phân bố:
Muỗi Aedes có mặt khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam có mặt khoảng 40 loài muỗi Aedes thuộc 8 phân giống.
Phòng chống:
Cải tạo môi trường, vệ sinh xung quanh nhà ở, lấp đầy các ổ nước đọng, loại bỏ những dụng cụ chứa nước không cần thiết, kết hợp nhiều biện pháp như thả cá, Mesocyclop xuống ao hồ để ăn bọ gậy muỗi, làm giảm mật độ muỗi Aedes.
Muỗi Aedes aegypti
Đặc điểm hình thể:
Trứng Aedes aegypti hình bầu dục, mầu đen, rời từng chiếc.Bọ gậy Aedes aegypticó ống thở to, bầu hơn ống thở của bọ gậy muỗi Culex, trên ống thở có vảy xếp theo hình răng cưa.Muỗi Aedes aegypti nhỏ, màu đen, chân, thân, bụng có khoang đen trắng rõ rệt, đặc biệt vùng ngực có các vẩy trắng xếp thành hàng trên lưngthành hình chiếc đàn 2 dây màu trắng.
Đặc điểm sinh học:
Muỗi thích đậu cao, nơi treo vắt quần áo, mùng màn, ở trong và ngoài nhà. Muỗi đốt máu vào ban ngày, bay rất nhanh, thấy mồi lao vào đốt máu ngay, theo mồi rất dai và chỉ bay đi khi đã đốt máu no. Hoạt động đốt máu của muỗi Aedes aegypti phụ thuộc nhiệt độ môi trường nếu nhiệt độ dưới 230C muỗi hầu như không đốtmáu, Muỗi Aedes aegypti đốt máu người vàđộng vật. Muỗi đẻ trứng ở những nơi có nước, đặc biệt là nước mưa, đôi khi đẻ trong đất ẩm, trứng nở khi rơi vào nước. Muỗi hoàn thành vòng đời nhanh, giao phối trong không gian nhỏ, nên muỗi được nuôi trong phòng thí nghiệm để thử nghiệm hoá chất. Mùa phát triển của muỗi thường vào mùa mưa, ở miền Bắc muỗi phát trtển từ tháng 4-11 thường có hai đỉnh cao vào tháng 5-6 và tháng 10-11.
Vai trò y học:
- Muỗi truyền mầm bệnh sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue và bệnh sốt vàng.
|
Bản đồ phân bố bệnh sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue( Nguồn : World Heath Organization,2009) |
Phân bố:
Muỗi gặp chủ yếu ở những nước nhiệt đới thuộc Châu Á, Châu Phi, Châu Mĩ...Muỗi gặp nhiều ở thành phố nên được gọi là muỗi vằn thành thị. Muỗi còn ở các thị trấn dọc theo các trục đường giao thông có dân cư đông đúc.
Phòng chống:
Phòng chống muỗi Aedes aegypti bằng cách che đậy kín nơi chứa nước, thả cá, Mesocyclop để ăn bọ gậy, thay nước thường xuyên, 7-10 ngày thay một lần, khi có nhiều muỗi hoặc đang có dịch thì dùng malathion, permethrin.... phun dưới dạng sương mù (ULV - Ultralowvolume).
Muỗi Aedes albopictus
Muỗi Ae. albopictus về hình thể rất giống muỗi Ae. aegypti chỉ khác trên mặt lưng có một vạch trắng, chạy dọc lưng. Sinh lý, sinh thái của muỗi Ae. albopictus tương tự như của muỗi Ae. aegypti, nhưng muỗi Ae. albopictus phân bố chủ yếu ở vùng nông thôn, gặp ít ở thành phố.