Cập nhật tháng 6/2014. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) - Viêm gan B (Hepatitis B) là một bệnh nhiễm trùng gan có khả năng đe dọa tính mạng do virus viêm gan B hiện trở thành một vấn đề lớn về sức khỏetoàn cầu. Viêm gan B có thể gây ra nhiễm trùng và bệnh gan mãn tính và đặt con người có nguy cơ tử vong cao do xơ gan (cirrhosis of the liver) và ung thư gan (liver cancer).
Hơn 240 triệu người có bị nhiễm trùng gan (dài hạn) mạn tính và hơn780.000 người chết mỗi năm do hậu quả cấp tính hoặc mãn tính của bệnh viêm gan B.Một vaccine chống lại viêm gan B đã có sẵn từ năm 1982, vaccine viêm gan B có hiệu lực 95% trong phòng ngừa việc lây nhiễm và hậu quả mãn tính của nó và là vaccine đầu tiên chống lại một căn bệnh ung thư chính ở người.
Sự phân bố về mặt địa lý (Geographical distribution)
Virus viêm gan B có thể gây ra một bệnh cảnh cấp tính với các triệu chứng kéo dài vài tuần bao gồm vàng da và mắt (bệnh vàng da), nước tiểu đậm màu, mệt mỏi cùng cực, buồn nôn, nôn và đau bụng. Tỷ lệ viêm gan B cao nhất ở vùng cận Saharan châu Phi và Đông Á, hầu hết mọi người ở các khu vực này bị nhiễm virus viêm gan B trong thời thơ ấu và khoảng 5-10% dân số người lớn bị nhiễm mạn tính. Tỷ lệ nhiễm trùng mạn tính cao cũng được phát hiện ở Amazon và các vùng phía nam của Đông và Trung Âu. Ở Trung Đông và Tiểu lục địa Ấn Độ, ước tính có khoảng 2-5% dân số nói chung bị bệnh mạn tính. Chưa đầy 1% dân số ở Tây Âu và Bắc Mỹ cũng bị bệnh mạn tính.
Sự lây truyền (Transmission)
Trong các khu vực lưu hành cao, HBV thường được lan truyền từ mẹ sang con khi sinh hoặc từ người sang người trong thời thơ ấu. Sự lan truyền chu sinh hoặc thời thơ ấu cũng có thể chiếm hơn một phần ba số ca bệnh nhiễm trùng mạn tính ở các vùng lưu hành thấp, mặc dù trong những nơi này, sự lây truyền thông qua quan hệ tình dục và việc sử dụng các kim tiêm bị ô nhiễm, đặc biệt là trong nhóm tiêm chích ma túy, là những tuyến đường lây nhiễm chính. Virus viêm gan B có thể tồn tại bên ngoài cơ thể ít nhất là 7 ngày, trong thời gian này virus vẫn có thể gây nhiễm nếu nó xâm nhập vào cơ thể của một người không được bảo vệ bởi vaccine. Virus viêm gan B không lây truyền qua thực phẩm hoặc nước uống bị ô nhiễm và không có thể lây lan tình cờ tại nơi làm việc. Thời gian ủ bệnh (incubation period) của virus viêm gan B trung bình là 75 ngày nhưng có thể thay đổi từ 30 đến 180 ngày. Virus có thể được phát hiện từ 30 đến 60 ngày sau khi nhiễm bệnh và tiếp tục tồn tại với những thời gian khác nhau.
Các triệu chứng (Symptoms)
Hầu hết mọi người không gặp bất kỳ triệu chứng nào trong giai đoạn nhiễm trùng cấp tính. Tuy nhiên, một số người có bệnh cấp tính với các triệu chứng kéo dài vài tuần, bao gồm vàng da và mắt (bệnh vàng da), nước tiểu đậm màu, mệt mỏi cùng cực, buồn nôn, nôn và đau bụng. Ở một số người, virus viêm gan B cũng có thể gây nhiễm trùng gan mạn tính mà sau này có thể phát triển thành xơ gan hoặc ung thư gan, hơn 90% người trưởng thành khỏe mạnh bị nhiễm virus viêm gan B sẽ phục hồi và hoàn toàn loại bỏ virus trong vòng 6 tháng.
Ai có nguy cơ mắc bệnh mạn tính? (Who is at risk for chronic disease?)
Khả năng bị nhiễm virus viêm gan B trở thành mạn tính phụ thuộc vào độ tuổi mà một người trở nên bị nhiễm bệnh. Trẻ em dưới 6 tuổi bị nhiễm virus viêm gan B là chắc có khả năng phát triển thành nhiễm trùng mãn tính: 80-90% trẻ sơ sinh bị nhiễm trong năm đầu tiên phát triển thành nhiễm trùng mạn tính; 30-50%% trẻ em bị nhiễm trước 6 tuổi phát triển thành nhiễm trùng mạn tính. Ở người lớn: <5% người trưởng thành khỏe mạnh bị nhiễm sẽ phát triển thành nhiễm trùng mạn tính; 15-25% người trưởng thành bị nhiễm mạn tính trong thời thơ ấu chết vì ung thư hay xơ gan có liên quan đến viêm gan B.
Chẩn đoán (Diagnosis)
Về mặt lâm sàng, không thể phân biệt viêm gan B với viêm gan gây ra bởi các tác nhân virus khácdo đó xác định chẩn đoán bằng xét nghiệm là cần thiết, một số xét nghiệm máu là có sẵn để chẩn đoán và theo dõi bệnh nhân viêm gan B có thể được sử dụng để phân biệt nhiễm trùng cấp tính và mạn tính. Chẩn đoán nhiễm viêm gan B bằng xét nghiệm tập trung vào việc phát hiện các kháng nguyên bề mặt HBsAg. WHO khuyến cáo rằng tất cả các nguồn máu hiến tặng phải được kiểm tra về các chỉ dấu này để tránh lây truyền cho người nhận. Nhiễm trùng cấp tính HBV được đặc trưng bởi sự hiện diện của HBsAg và kháng thể globulin miễn dịch M (IgM) với kháng nguyên lõi, HBcAg. Trong giai đoạn đầu của nhiễm trùng, bệnh nhân cũng có huyết thanh dương tính với HBeAg. Nhiễm trùng mạn tính được đặc trưng bởi sự tồn tại (> 6 tháng) của HBsAg (có hoặc không có đồng thời HBeAg). Sự tồn tại của HBsAg là chỉ dấu chính của nguy cơ phát triển thành bệnh gan mạn tính và ung thư biểu mô gan ( hepatocellullar -HCC) sau này trong cuộc đời. Sự có mặt của HBeAg chỉ ra rằng máu và các dịch của máu ở cơ thể của người bị nhiễm bệnh là rất dễ lây.
Điều trị (Treatment)
Không có thuốc đặc trị cho bệnh viêm gan B cấp tính,chăm sóc là nhằm mục đích duy trì sự thoải mái và cân bằng dinh dưỡng đầy đủ, bao gồm bồi phụ các dịch bị mất do nôn và tiêu chảy.Một số người bị nhiễm viêm gan B mạn tính được điều trị bằng các loại thuốc, bao gồm interferon và các thuốc kháng virus. Điều trị có thể làm chậm sự tiến triển của xơ gan, làm giảm tỷ lệ mắc HCC và cải thiện sự sống còn lâu dài. Tuy nhiên, thuốc không phải là dễ dàng tiếp cận ở nhiều nơi có nguồn lực hạn chế. Ung thư gan hầu như gây tử vong và thường phát triển ở những người ở độ tuổi khi họ là những người lao động chính và chịu trách nhiệm của gia đình. Ở các nước đang phát triển, hầu hết người bị ung thư gan chết trong vòng vài tháng sau chẩn đoán. Ở các nước có thu nhập cao, phẫu thuật và hóa trị có thể kéo dài cuộc sống cho đến một vài năm, người bị xơ gan đôi khi được ghép gan với mức độ thành công khác nhau.
Phòng chống (Prevention)
Thuốc chủng ngừa viêm gan B là trụ cột trong công tác phòng chốngviêm gan B, WHO khuyến cáo rằng tất cả các trẻ sơ sinh nên được chủng ngừa viêm gan B càng sớm càng tốt sau khi sinh, tốt nhất là trong vòng 24 giờ.Liều lúc sinh cần được theo sau bởi 2 hoặc 3 liều để hoàn thành loạt chủng ngừa chính,trong hầu hết các trường hợp thì 1 trong 2 sự lựa chọn sau đây được coi là thích hợp: (1) Một liệu trình 3 liều vaccine viêm gan B với liều đầu tiên (đơn trị) được đưa cho khi sinh và liều thứ hai và liều thứ ba (đơn trị hoặc vaccine kết hợp) được cho vào cùng thời điểm với liều đầu tiên và liều thứ ba của vaccine DTP hoặc (2) Liệu trình 4 liều, nơi một liều đơn trị vào lúc sinh được theo sau bởi 3 liều đơn trị hoặc liều vaccine kết hợp, thường được cho cùng với các vaccine cho trẻ sơ sinh định kỳ khác.
Loạt chủng ngừa đầy đủ gây ra mức độ kháng thể bảo vệ cho hơn 95% trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh thiếu niên,bảo vệ kéo dài ít nhất 20 năm và có thể là suốt đời.Tất cả trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi và những người không được tiêm phòng trước đó nên chủng ngừa nếu họ sống ở các nước nơi có mức lưu hành thấp hoặc trung bình, trong các nơi này có thể có nhiều người trong nhóm có nguy cơ cao có thể mắc phải sự lây nhiễm và họ cũng nên được chủng ngừa. Các đối tượng bao gồm: những người thường xuyên đòi hỏi cần máu hoặc các sản phẩm máu, bệnh nhân lọc máu, người nhận ghép tạng đặc (people who frequently require blood or blood products, dialysis patients, recipients of solid organ transplantations); người trong các nhà tù (people interned in prisons); người tiêm chích ma túy (injecting drug users); hộ gia đình và người có quan hệ tình dục với người bị nhiễm HBV mạn tính (household and sexual contacts of people with chronic HBV infection); những người có nhiều bạn tình, cũng như nhân viên y tế và những người khác có thể bị phơi nhiễm với máu và các sản phẩm máu thông qua công việc của họ (people with multiple sexual partners, as well as health-care workers and others who may be exposed to blood and blood products through their work); các du khách đã không hoàn thành loạt tiêm chủng viêm gan B của họ cần phải nhận được vaccine trước khi đến vùng lưu hành (travellers who have not completed their hepatitis B vaccination series should be offered the vaccine before leaving for endemic areas).
Vaccin viêm gan B được ghi nhận là xuất sắc về độ an toàn và tính hiệu quả. Từ năm 1982, hơn một tỷ liều vaccine viêm gan B đã được sử dụng trên toàn thế giới. Ở nhiều nước, nơi có đến 8-15% trẻ em trở thành mạn tính khi bị nhiễm virus viêm gan B thì việc tiêm phòng đã làm giảm tỷ lệ nhiễm mạn tính xuống dưới 1% ở trẻ em được chủng ngừa. Vào năm 2012, 183 nước thành viên tiêm chủng cho trẻ sơ sinh chống lại bệnh viêm gan B như là một phần của lịch trình tiêm chủng của họ và 79% trẻ em được tiêm vaccine viêm gan B là một sự gia tăng lớn so với 31 quốc gia vào năm 1992, năm mà Đại Hội đồng Y tế thế giới thông qua một nghị quyết khuyến nghị việc tiêm chủng trên toàn cầu nhằm chống lại bệnh viêm gan B. Hơn nữa, vào năm 2012, 94 quốc gia thành viên đã đưa liều viêm gan B vào lúc sinh. Ngoài ra, thực hiện chiến lược an toàn truyền máu, bao gồm sàng lọc đảm bảo chất lượng tất cả các thành phần của máu và máu hiến tặng được sử dụng để truyền có thể phòng ngừa lây nhiễm HBV. Thực hành tiêm chích an toàn-tiêm chích không cần thiết cũng như tiêm chích không an toàn-có thể bảo vệ chống lại việc lây nhiễm HBV. Hơn nữa, các thực hành tình dục an toàn, bao gồm cả việc giảm thiểu số lượng các đối tác bạn tình và sử dụng các biện pháp bảo vệ (bao cao su), có tác dụng bảo vệ chống lại sự lây truyền.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO response)
WHO thực hiện trong các lĩnh vực sau đây để phòng ngừa và kiểm soát bệnh viêm gan siêu vi như nâng cao nhận thức, thúc đẩy quan hệ đối tác và huy động nguồn lực (raising awareness, promoting partnerships and mobilizing resources); xây dựng các dữ liệu và chính sách và dựa trên bằng chứng cho hành động (formulating evidence-based policy and data for action); phòng ngừa sự lây truyền (preventing of transmission); thúc đẩy tiếp cận tới các dịch vụ sàng lọc, chăm sóc và điều trị (promoting access to screening, care and treatment services). WHO cũng tổ chức Ngày Viêm gan thế giới (World Hepatitis Day) vào ngày 28 tháng 7 hàng năm để nâng cao nhận thức và hiểu biết về viêm gan siêu vi.