Tả là một bệnh tiêu chảy cấp tính được gây ra bởi sự tiêu hoá thực phẩm hay nước bị ô nhiễm bởi vi khuẩn Vibrio cholerae. Hàng năm, ước tính có khoảng 3- 5 triệu ca tả và khoảng 100.000 đến 120.000 ca tử vong do tả.Thời gian ủ bệnh ngắn từ 2 giờ đến 5 ngày thúc nhanh việc bùng phát dịch tả.
Khoảng 75% người nhiễm Vibrio cholerae không phát triển bất cứ triệu chứng nào mặc dù vi khuẩn hiện diện trong phân của họ từ 7 đến14 ngày sau khi nhiễm và tung trở lại ra môi trường,đe doạ gây nhiễm cho người khác. Trong số các người phát triển triệu chứng, 80% có triệu chứng nhẹ hay trung bình trong khi đó 20% phát triển thành ỉa chảy mất nước cấp tính với mất nước trầm trọng. Điều này có thể dẫn đến tử vong nếu không được điều trị. Người có miễn dịch thấp như trẻ em loạn dưỡng hay người có HIV là nhóm có nguy cơ tử vong lớn hơn nếu bị nhiễm.
Lịch sử
Trong thế kỷ 19,tả lan rộng trên thế giới từ một ổ chứa ban đầu ở vùng đồng bằng Ganges của Ấn độ. 6 đại dịch sau đó giết chết hàng triệu người ở tất cả các lục địa. Đại dịch thứ 7 (đại dịch hiện nay) bắt đầu ở Nam Á vào năm 1961, và vươn đến Châu phi vào năm 1971, Châu Mỹ vào năm 1991. Hiện nay tả lưu hành ở nhiều quốc gia.
Chủng phẩy khuẩn tả
Hai nhóm huyết thanh V.cholerea -01 và -0139 gây ra các vụ dịch. V-01 gây ra hầu hết các vụ dịch trong khi -0139 được xác định đầu tiên ở Bangladesh vào năm 1992- chỉ giới hạn ở Đông Nam Á. không thuộc nhóm 01 và 0139 V.cholerea không thuộc nhóm0 1 và 0139 có thể gây ra tiêu chảy nhẹ nhưng nói chung không gây ra dịch. Gần đây, các chủng biến thể mới đã được phát hiện ở một vài nơi của Châu Á và Châu Phi. Các quan sát nhận thấy rằng các chủng này gây ra tả trầm trọng và tỷ lệ tử vong cao hơn. Giám sát dịch tể học sự lưu hành các chủng này được khuyến cáo. Các ổ chứa chính của V.cholerea là người và nguồn thuỷ sinh như ở vùng nước lợ và các cửa sông, thường có liên quan đến sự nở của tảo. Những nghiên cứu gần đây chứng tỏ rằng sự ấm lên toàn cầu tạo ra môi trường thuận lợi cho vi khuẩn.
Các yếu tố nguy cơ và sự bùng phát
Tả lây lan là có sự gắn kết chặt chẽ tới xử lý môi trường không đầy đủ. Các vùng đặc biệt nguy cơ bao gồm nhà ổ nhện ở vùng ven đô thị,nơi hạ tầng cơ sở nghèo nàn cũng như các trại dành cho các người hồi hương và tỵ nạn quốc tế, nơi mà những nhu cầu tối thiểu về nước sạch và tình trạng vệ sinh không đáp ứng. Hậu quả của thảm hoạ- như là sự vỡ đập và hệ thống vệ sinh, hay sự thay đổi của quần thể đến trại tỵ nạn đông người và không vệ sinh-có thể làm gia tăng nguy cơ tả lan truyền khi vi khuẩn có mặt hay được đưa vào. Dịch không bao giờ nảy sinh từ cơ thể người chết. Tả vẫn còn là mối đe doạ tới sức khoẻ cộng đồng trên toàn cầu và là một chỉ số quan trọng của sự phát triển xã hội thấp kém. Gần đây, sự tái diễn bệnh tả đã được ghi nhận song song với sự gia tăng về kích thước quần thể của những nhóm dễ bị tổn thương sống thiếu vệ sinh. Số lượng các ca tả báo cáo tới Tổ chức y tế thế giới tiếp tục gia tăng. Chỉ trong năm 2011, tổng cộng có 589.854 ca tả được ghi nhận ở 58 quốc gia, trong đó có 7816 ca chết.Nhiều trường hợp hơn không được báo cáo do hạn chế về hệ thống giám sát và nỗi lo sợ trừng phạt về du lịch và thương mại. Số lượng ca tả thực được ước tính là từ 3-5 triệu, và 100.000 đến 120.000 ca chết hàng năm
Phòng chống bệnh tả
Một cách tiếp cận đa lĩnh vực dựa trên phòng chống, sắn sàngvà đáp ứngcùng với một hệ thống giám sát hiệu quả là chìa khoá cho việc làm giảm dịch bệnh, khống chế tả ở các quốc gia lưu hành và làm giảm số chết.
Điều trị
Tả là một bệnh điều trị dễ dàng. Có tới 80% người có thể điều trị thành công thông qua biện pháp cho uống Oresol tức thì. Các trường hợp mất nước nặng đòi hỏi sự bù dịch bằng đường tĩnh mạch. Các bệnh nhân như thế cũng đòi hỏi sử dụng kháng sinh thích hợp để làm giảm thời gian ỉa chảy, giảm thể tích dịch bồi phụ cần thiết, và rút ngắn thời gian bài thải V.cholerea. Cho uống kháng sinh hàng loạt không được khuyến cáo bởi vì nó không có hiệu quả về sự lan truyền tả và góp phần gia tăng sự đề kháng với kháng sinh. Để đảm bảo tiếp cận với điều trị kịp thời, các trung tâm điều trị tả (CTCs) phải được thiết lập ở trong các quần thể bị ảnh hưởng.Điều trị đúng sẽ làm tử vong giảm dưới 1%
Đáp ứng dịch
Ngay khi dịch được phát hiện chiến lược can thiệp thông thường là làm giảm ca chết bằng cách đảm bảo tiếp cận với điều trị kịp thời và khống chế sự lan rộng của bệnh bằng cách cung cấp nước sạch, vệ sinh đầy đủ và giáo dục sức khoẻđể cải thiện tình trạng vệ sinh và thực hành ăn uống sạch bởi cộng đồng. Sự cung cấp nước sạch và vệ sinh là thách thức ghê gớm nhưng là yếu tố chìa khoá để làm giảm các tác động của tả.
Các vaccin tả bằng đuờng uống
Hai loai vaccin bằng đường uống có hiệu quả và an toàn hiện nay là sẵn có trên thị trường. Cả hai là các vaccin chết tế bào toàn bộ, một là vaccin tái tổ hợp, một thì không. Cả hai bảo vệ trên 50% kéo dài trong 2 năm ở các vùng lưu hành.Cả hai đều được kiểm định và cấp phép bởi WHO ở trên 60 quốc gia. Dukoral đã chứng tỏ bảo vệ trong thời gian ngắn và 85-90% chống lại V cholerea trong tất cả các nhóm tuổi từ 4 đến 6 thángsau khi uống. Vaccin khác (Shanchol) cung cấp sự bảo vệ trong một thời gian dài chống lại V.cholerea 01 và 0139 ở trẻ em dưới 5 tuổi. Cả hai vaccin đuợc dùng 2 liều cách nhau 7 ngày và 6 tuần tuỳ theo loại vaccin . Vaccin Dukoral được cho trog 150 ml nước sạch.
WHO khuyến cáo rằng chủng ngừa với vaccin có sắn hiện nay được sử dụng kết hợp với các biện pháp phòng chống được khuyến cáo thông thường ở các nơi có lưu hành bệnh tả cũng như ở các vùng có nguy cơ bùng phát dịch . Các vaccin chỉ cung cấp một sự bảo vệ ngắn trong khi các hoạt động dài kỳ như cung cấp nước sạch và cải thiện tình trạng vệ sinh phải được đặt ra. Khi sử dụng chủng ngừa phải nhắm đến quần thể đích dễ bị tổn thương sống ở các vùng có nguy cơ cao và phải không ngăn cản các biện pháp phòng chống khác để khống chế hay ngăn ngừa dịch tả. Quyết định 3 bước của WHO tạo ra công cụ nhằm mục đích hướng dẫn các cơ quany tế có quyết định sử dụng vaccin hay không trong các trường hợp khẩn cấp.
Sử dụng vaccin tả bằng đường tiêm là không được khuyến cáo bởi WHO do hiệu quả bảo vệ thấp và xảy ra các phản ứng phụ trầm trọng cao.
Du lịch và thương mại
Hiện nay, không có quốc gia nào đòi hỏi chứng minh có chủng ngừa vaccin như là một điều kiện nhập cảnh. Kinh nghiệm trong quá khứ chứng tỏ rằng các biện pháp kiểm dịch và lệnh cấm sự di chuyển của người và hàng hoá là không cần thiết.Các ca tả được phân lập cóliên quan đến hàng hoá nhập khẩu với thực phẩm thuộc sở hữu cá nhân khách du lịch.Kết quả là các hạn chế nhập khẩu về thực phẩm được sản xuất thực hành tốt dựa trên nền tảng rằng tả đang lưu hành hay có dịch là không được biện minh. Các quốc gia liền kề các vùng bị ảnh hưởng được khuyến cáo tăng cường giám sát bệnh và sẵn sàng ở mức quốc gia nhằm phát hiện nhanh chóng và đáp ứng kịp thời đối với dịch khi tả lan qua biên giới. Hơn nữa, các thông tin phải được cung cấp cho khách du lịch và cộng đồng về nguy cơ và các triệu chứng của tả, cùng với sự thận trọng để tránh mắc tả, khi nào và ở đâu để báo cáo ca bệnh.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới.
Thông qua lực lượng phòng chống tả trên toàn cầu, WHO làm việc để cung cấp các tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ công tác phòng chống tả ở mức quốc gia. Huấn luyện các nhân viên y tế ở cấp quốcgia, vùng và quốc tế trong việc phòng ngừa , sẵn sàng và đáp ứng với các vụ dịch tiêu chảy. Phổ biến thông tin và hướng dẫn về các bệnh đường ruột gây dịch khác và bệnh tả tới nhân viên y tế và cộng đồng nói chung.