Hiện nay thuật ngữ “an toàn truyền máu” phải được hiểu theo nghĩa rộng là an toàn cho người cho máu, an toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu và an toàn cho người nhận máu. Trong an toàn truyền máu, việc sàng lọc các bệnh lây nhiễm qua đường truyền máu có tầm quan trọng rất lớn để góp phần chủ động ngăn ngừa tình trạng nhiễm bệnh của người nhận máu từ máu đã được truyền.
Quy định sàng lọc bệnh qua truyền máu
Với sự phát triển của khoa học, các nhà nghiên cứu đã có phát hiện mới về những bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường truyền máu. Lần đầu tiên vào năm 1943, nhà khoa học Beeson đã mô tả một bệnh nhân bị viêm gan sau truyền máu và ghi nhận thêm số lượng máu truyền càng nhiều thì bệnh viêm gan sau truyền máu càng tăng. Năm 1965, nhà khoa học Blumberg người Australia đã sử dụng kỹ thuật tủa trên thạch phát hiện trong huyết thanh bệnh nhân viêm gan có một loại protein mới được gọi là kháng nguyên “Au”. Các nhà khoa học sau đó đã tiếp tục có những nghiên cứu về bệnh viêm gan và một số bệnh lý khác qua con đường truyền máu.
Ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1973, việc sàng lọc các bệnh lây qua đường truyền máu ở người cho máu được thực hiện với kỹ thuật đơn giản “điện di khuếch tán trên thạch” để phát hiện kháng nguyên “Au” với tỷ lệ phát hiện thấp 4,14%. Năm 1978 đã thực hiện việc sàng lọc máu để phát hiện HBsAg, anti-HIV bằng kỹ thuật Elisa (Enzyme linked immuno sorbent assay) ở một số cơ sở trung tâm huyết học và truyền máu lớn. Năm 1993, Điều lệnh truyền máu được ban hành quy định tất cả các đơn vị máu tiếp nhận trên toàn quốc bắt buộc phải sàng lọc 5 loại bệnh là viêm gan B, viêm gan C, HIV, giang mai và sốt rét. Năm 2007, Bộ Y tế ban hành Quy chế truyền máu thay thế cho Điều lệnh truyền máu đã bắt buộc việc sàng lọc viêm gan B, viêm gan C, HIV phải thực hiện bằng kỹ thuật có độ nhạy, độ đặc hiệu tương đương hoặc cao hơn kỹ thuật Elisa.
Thực trạng và nguy cơ mắc bệnh do truyền máu
Nước ta hiện nay có 4 trung tâm huyết học-truyền máu lớn ở tại Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ nhưng hệ thống truyền máu trong cả nước còn phân tán. Cộng đồng người dân đã có những nhận thức tiến bộ và tham gia hưởng ứng tích cực về phong trào hiến máu tình nguyện hàng năm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng máu của người bệnh, thực tế có khoảng 25% nguồn máu cung cấp được thu nhận từ những người bán máu chuyên nghiệp. Thực trạng thiếu máu phục vụ cho công tác điều trị là vấn đề quan tâm ở các bệnh viện trên toàn quốc, kể cả bệnh viện tuyến trung ương. Tại các đơn vị thực hiện công tác huyết học-truyền máu, hệ thống trang thiết bị sàng lọc thiếu đồng bộ và chưa được hiện đại. Đồng thời, các hướng dẫn kỹ thuật chung cho công tác truyền máu còn thiếu; kỹ thuật và sinh phẩm sàng lọc các bệnh lây qua đường truyền máu còn có khoảng cửa sổ kéo dài. Ngoài ra, thực trạng an toàn truyền máu đang đối mặt và bị đe dọa trước tình hình HIV gia tăng. Thực tế ghi nhận tình hình nhiễm HIV, viêm gan B, viêm gan C đã xuất hiện ở một số địa phương kể cả trẻ em được truyền máu do có khoảng 15% số huyện không sàng lọc HIV, viêm gan B, viêm gan C trong quy trình lấy máu thường quy. Đây là một thực trạng tạo nên nguy cơ lớn làm ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng người dân vì tỷ lệ gây ung thư gan, xơ gan do viêm gan B, viêm gan C ngày càng cao.
Một vấn đề cũng được đặt ra là nguồn lực đầu tư, hỗ trợ cho công tác chuyên khoa này vẫn còn thiếu và yếu. Cả nước ta hiện nay chỉ có khoảng 3.800 cán bộ, nhân viên làm công tác trong cả hai lĩnh vực huyết học và truyền máu; nguồn nhân lực này chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu cần thiết. Vật lực, kinh phí hỗ trợ cho công tác phát triển chuyên khoa truyền máu chưa đáp ứng đủ yêu cầu; hoạt động truyền máu hàng năm chủ yếu chỉ dựa vào kinh phí hoạt động của các bệnh viện.
Từ thực trạng tình hình đã nêu ở trên, nguy cơ phải đối mặt với các bệnh lây nhiễm qua đường truyền máu là điều không thể tránh khỏi. Nước ta nằm trong vùng dịch tễ có tỷ lệ viêm gan B cao nhất thế giới với tỷ lệ từ 13% đến 15%; tỷ lệ nhiễm viêm gan C cũng chiếm từ 3% đến 5%; đặc biệt tình hình nhiễm HIV đang hiện diện và có xu hướng gia tăng ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước; tình hình bệnh sốt rét cũng đang có nguy cơ quay trở lại để góp phần vào sốt rét do truyền máu mặc dù ngành y tế dự phòng đã có những nỗ lực, cố gắng để phòng chống và loại trừ sốt rét ra khỏi cộng đồng. Một số tỉnh, thành phố không nằm trong diện quản lý của các trung tâm huyết học-truyền máu nhưng có nhu cầu sử dụng máu nên đã lấy máu của người nhà bệnh nhân hoặc những người bán máu nhưng chỉ được sàng lọc túi máu bằng test chẩn đoán nhanh; thậm chí có nơi chỉ làm xét nghiệm HBsAg, anti-HIV; không làm anti-HCV, giang mai... Với số liệu thống kê báo cáo kết quả xét nghiệm dương tính với viêm gan B, viêm gan C, HIV trên đối tượng những người khỏe mạnh đi hiến máu tình nguyện ghi nhận chiếm tỷ lệ tương đối cao và với thực trạng tình hình của hệ thống chuyên khoa truyền máu hiện nay đã báo động cho ngành chuyên khoa này các nguy cơ ảnh hưởng nhiễm bệnh được lây truyền qua đường truyền máu với tần suất cao để có kế hoạch xây dựng giải pháp cụ thể, phù hợp trong việc triển khai Quy chế truyền máu nhằm bảo đảm an toàn truyền máu theo đúng quy định của Bộ Y tế.
Các bệnh lây nhiễm qua đường truyền máu
Thực tế ghi nhận, bệnh lây nhiễm qua đường truyền máu gồm các bệnh nhiễm virus, nhiễm vi khuẩn và nhiễm ký sinh trùng.
Bệnh nhiễm virus
Các virus viêm gan có thể gây bệnh sau khi truyền bất kỳ một chế phẩm của máu để điều trị một bệnh nào đó cho bệnh nhân. Viêm gan C là bệnh hay gặp nhất sau truyền máu, có thể chiếm tỷ lệ khá cao 95%; chúng có thời gian ủ bệnh từ 2 tuần đến 6 tháng; triệu chứng lâm sàng ít rõ ràng, có khoảng 25% có triệu chứng vàng da; chủ yếu là các triệu chứng mệt mỏi, chán ăn; chẩn đoán dựa vào xét nghiệm anti-HCV và men gan tăng. Viêm gan B ít gặp hơn viêm gan C; chúng có thời gian ủ bệnh từ 6 đến 11 tuần; có khoảng 60% trường hợp không có biểu hiện lâm sàng; chẩn đoán xác định dựa vào xét nghiệm huyết thanh học tìm HBsAg, HBeAg, anti-HBc, anti-HBs, anti-HBe. Viên gan D cũng là bệnh nhiễm virus lây truyền qua đường máu nhưng chúng phụ thuộc vào virus viêm gan B; chẩn đoán xác định bệnh dựa vào xét nghiệm HBsAg, nếu kết quả dương tính sẽ tìm anti HDV-IgM.
Nhiễm HIV (Human immuno deficiency virus) 1,2 là một mối nguy cơ lớn của công tác truyền máu hiện nay rất được quan tâm vì tuy có sàng lọc nhưng vẫn có thể bị lây truyền nếu máu được lấy ở giai đoạn cửa sổ. Hiện nay kỹ thuật phát hiện sớm nhất là tìm kháng nguyên p24. Biện pháp phòng ngừa tốt nhất là tìm nguồn cho máu an toàn, bổ sung các xét nghiệm có độ nhạy cao để rút ngắn thời gian cửa sổ, tiến hành truyền máu từng phần, sử dụng kỹ thuật lọc bạch cầu, truyền máu tự thân.
Nhiễm HTLV (Human T-lymphotropic virus) 1-2 do truyền máu có thể gây bệnh leucemia cấp tính dòng lympho T ở người; chúng đã gây thành dịch và được phát hiện lần đầu tiên ở Nhật Bản.
Các loại virus khác như CMV (Cytomegalovirus) và EBV (Epstein-Barr virus) cũng có thể lây nhiễm qua đường truyền máu. Tại nước ta, tỷ lệ người khỏe mạnh có kháng thể này khá cao với từ 60% đến 70%; vì vậy việc sàng lọc 2 loại virus này chưa thật cần thiết ngoại trừ trường hợp cần thiết cần thực hiện đối với các bệnh nhân ghép tủy, gan hoặc thận.
Bệnh nhiễm vi khuẩn
Một trong các vi khuẩn lây nhiễm qua đường truyền máu là xoắn khuẩn giang mai do không được sàng lọc hoặc sàng lọc ở giai đoạn cửa sổ. Tuy nhiên đây là nguyên nhân ngày càng ít gặp và ít quan trọng vì số người bị nhiễm bệnh giang mai ít và thực tế do sử dụng các chế phẩm máu thường được bảo quản trên 3 ngày. Phòng ngừa sự lây nhiễm bằng việc sàng lọc huyết thanh với bộ thử nghiệm có độ nhạy cao; bảo quản máu dài ngày ở nhiệt độ thấp; tuy nhiên việc bảo quản máu dài ngày ở nhiệt độ thấp không phù hợp với việc sử dụng đối với khối tiểu cầu và bạch cầu.
Bệnh nhiễm ký sinh trùng
Các bệnh ký sinh trùng lây nhiễm qua đường truyền máu thường gặp có thể là sốt rét, giun chỉ bạch huyết, Trypanosoma là loại ký sinh trùng đơn bào lớp trùng roi, Schistosoma là loại sán máng... Ở nước ta đặc biệt chú ý đến vấn đề nhiễm ký sinh trùng sốt rét do truyền máu vì dịch bệnh còn lưu hành ở một số địa phương, tỷ lệ người mang ký sinh trùng lạnh còn hiện diện nên rất dễ có nguy cơ lây nhiễm sốt rét qua đường truyền máu. Bệnh nhân bị lên cơn sốt khoảng từ 2 đến 3 ngày sau khi truyền máu có ký sinh trùng sốt rét. Do ký sinh trùng sốt rét được truyền trực tiếp vào máu mà không có chu kỳ sinh sản trong gan như khi bị muỗi truyền bệnh đốt máu và truyền mầm bệnh nên việc điều trị tương đối dễ dàng hơn. Trên thực tế, để phòng ngừa sốt rét do truyền máu cần thực hiện bằng cách sàng lọc kỹ người cho máu bằng cách phát hiện ký sinh trùng sốt rét trên lam máu xét nghiệm. Đối với các trường hợp sốt rét do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum, có thể dùng test chẩn đoán nhanh để loại trừ ngay các người cho máu có kết quả dương tính với sốt rét.
An toàn truyền máu phải bắt đầu từ việc sàng lọc
Ngày 14 tháng 6 hàng năm, các quốc gia trên toàn cầu phát động Ngày Thế giới hiến máu (World blood day) để kêu gọi cộng đồng người dân tham gia hưởng ứng phong trào hiến máu tình nguyện cứu người. Máu và chế phẩm của máu có thể xem là một loại thuốc đặc biệt được sử dụng trong cấp cứu, điều trị bệnh và triển khai các kỹ thuật y học cao đã góp phần cứu sống hàng triệu người bệnh. Mặc dù hiện nay những phát minh, sáng kiến khoa học đã tiến rất xa ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa điều chế được chất liệu dùng để thay thế máu; vì vậy nguồn cung cấp máu và chế phẩm máu vẫn phải lấy từ con người. Để bảo đảm cho người nhận máu không bị lây nhiễm các bệnh qua đường truyền máu, việc sàng lọc những tác nhân gây bệnh được xem là một trong những mục tiêu chủ yếu. Vì vậy các xét nghiệm sàng lọc HIV, viêm gan B, viêm gan C, giang mai, sốt rét được quy định bắt buộc thực hiện đối với nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. An toàn truyền máu phải bắt đầu từ việc sàng lọc các bệnh có khả năng lây nhiễm qua đường truyền máu để chủ động phòng ngừa, truyền máu an toàn.