Bỏng đường hô hấp thường xảy ra trong các vụ tai nạn cháy nổ, đây là một bệnh lý bỏng có tỷ lệ tử vong cao. Nạn nhân bị tổn thương cơ quan hô hấp do hít thở các khói khí nóng và các sản phẩm hóa học được hình thành từ các chất bị cháy. Bỏng đường hô hấp gây tổn thương do hít thở các khói khí thường chiếm tỷ lệ từ 2,5% đến 15%, 20%, 63% tùy thuộc vào từng hoàn cảnh và tác nhân gây bỏng.
Tình trạng bỏng đường hô hấp thường gặp trong các trường hợp bị tai nạn lửa cháy ở trong các buồng kín, xe kín hoặc các vụ nổ xảy ra do cháy nổ dưới hầm mỏ, nổ nồi súp de có hơi nước dưới áp suất... Tác nhân gây bỏng đường hô hấp thường gặp trong các trường hợp không khí bị đốt nóng lên từ trên 50oC đến 250oC. Khói và các sản phẩm hóa học có chứa trong chất khí là những chất kích thích niêm mạc hô hấp, đồng thời cũng là khí độc và ngọn lửa cháy trong các vụ cháy lớn, hơi nước nóng có thể gây bỏng đường hô hấp. Ngoài ra, có thể gặp các trường hợp bỏng đường hô hấp do các chất lỏng nóng, các chất hóa học dạng lỏng sặc vào đường thở khi ngã đầu ngập xuống như bị ngã xuống hố vôi đang tôi nóng.
Cơ chế gây tổn thương
Qua nghiên cứu thực nghiệm bằng ngọn lửa phun tạt lửa cháy vào miệng con mèo hoặc dùng khí dung nóng, khói nóng, hơi nước nóng để gây bỏng đường hô hấp. Các nhà khoa học đã ghi nhận bỏng đường hô hấp do tác động bởi nhiệt độ cao, sự kích khích của tác nhân gây bỏng và thời gian tiếp xúc. Nhiệt độ của tác nhân gây bỏng có thể làm bỏng đường hô hấp. Nếu nhiệt độ càng cao thì thời gian tác dụng càng ngắn để gây nên tăng nhiệt độ ở khí quản. Tác dụng kích thích của tác nhân gây bỏng do khói nóng sẽ làm tổn thương đường hô hấp nặng mặc dù thời gian tác dụng ngắn so với không khí nóng, hơi nước nóng. Khi khói nóng xâm nhập vào đường hô hấp, chúng thường gây bỏng toàn bộ, tổn thương nặng nhất là ở đường hô hấp trên. Thời gian niêm mạc đường hô hấp chịu ảnh hưởng bởi các chất khí nóng nói trên cũng làm ảnh hưởng và gây tổn thương. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy bộ phận thường bị bỏng là họng, hầu, khí quản, phế quản. Ngoài ra cũng có thể gặp các tổn thương bỏng ở phế nang. Khi nhiệt độ khí nóng ở miệng từ 350 đến 500oC thì nhiệt độ ở thanh quản sẽ lên tới từ 150 đến 350oC; ở đoạn trên của khí quản lên tới từ 80 đến 100oC; ở phần phân đôi của khí quản lên tới từ 65 đến 95oC; từ đó ở niêm mạc của các phần này có nhiệt độ có thể lên tới từ 43 đến 51oC. Nhiệt độ máu ở tâm thất trái của tim cùng lên tới 44oC; còn nhiệt độ máu lưu hành ở lưới mạch nhu mô phổi có thể nóng hơn. Máu ở tĩnh mạch chủ trên có nhiệt độ tăng cao hơn so với động mạch chủ trên. Trong nghiên cứu thực nghiệm gây bỏng đường hô hấp bao giờ cũng dẫn đến hậu quả phù nề, sung huyết niêm mạc đường hô hấp. Tính thẩm thấu của thành mao mạch phổi tăng do luồng máu lưu thông ở các mao mạch bị nóng lên, dẫn đến thoát dịch huyết tương ở nhu mô phổi. Sự lưu thông máu ở vòng tuần hoàn nhỏ bị ứ trệ do huyết áp động mạch phổi tăng cao; ngoài ra còn thấy nhiều ổ huyết tắc tĩnh mạch ở nhu mô phổi. Dịch phù nề thoát qua thành vi mạch nhu mô phổi chứa đến 80% chất albumin, chúng ứ đọng ở khoảng khe kẽ và sẽ bị hyalin hóa gây ra suy giảm hô hấp tiến triển. Trên lâm sàng thấy có hiện tượng ùn tắc đường hô hấp bởi các dịch tiết của đờm, các khuôn nút do các khối cơ huyết những tế bào niêm mạc bị hoại tử và bạch cầu tạo thành các chỗ bít tắc lưu thông của không khí. Tình trạng phù nề ở vùng mặt, cổ do bỏng và tổn thương bỏng ở ngực sẽ làm cản trở phản xạ ho để tống chất đờm ra ngoài. Phản xạ ho cũng bị mất khi có hoại tử niêm mạc đường hô hấp và các đầu mút thần kinh tận cùng bị tổn thương. Các hiện tượng trên dẫn đến khí phế thủng, xẹp phân thùy phổi do bít tắc. Có hiện tượng viêm mủ khí quản gốc lan đến phế quản nhỏ, các tổ chức lân cận quanh phế quản rồi đến nhu mô phổi. Ở những nạn nhân bị bỏng đường hô hấp thường thấy giảm mức thông khí tối đa, dung tích sống của phổi, chỉ số sử dụng oxy, phân áp khí oxy ở máu. Xuất hiện tình trạng nhiễm acid với nồng độ prostacylin tăng cao ở hệ bạch huyết của phổi. Như vậy trong thời gian bỏng đường hô hấp và tổn thương do hít thở khói khí thể hiện sự suy hô hấp cấp tính, tiếp theo là phù phổi từ 48 đến 72 giờ sau bỏng và có các biến chứng viêm phế quản từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7 sau bỏng. Vai trò bệnh lý của chất PAF (Platelet activating factor), thrombosanne A2, gốc oxy tự do và chất điện hoạt cũng đã được nghiên cứu trong các trường hợp bỏng đường hô hấp. Theo một nghiên cứu trước đây ghi nhận trong 97 nạn nhân bị bỏng do lửa cháy trên 4 xe ô tô khách, có 60% bị bỏng đường hô hấp kết hợp. Theo dõi diễn biến lâm sàng ở 55% nạn nhân bị bỏng đường hô hấp nhận thấy có 1,7% trường hợp suy hô hấp cấp tính xuất huyết phế nang; 27,5% viêm phổi và 8,6% viêm phế quản.
Triệu chứng bệnh lý, diễn biến lâm sàng và điều trị
Các nạn nhân bị bỏng nhất là bỏng sâu thường có đi kèm bỏng môi, lông mũi bị cháy, bị hóa chất hoặc chất lỏng nóng sôi ngấm vào niêm mạc mũi, miệng, họng; hít thở phải nhiều khói khí và sản phẩm cháy... vào đường hô hấp. Vì vậy nạn nhân cần phải được khám xét kỹ đường hô hấp trên và theo dõi xem triệu chứng bị bỏng đường hô hấp trong vòng từ 1 đến 2 tuần đầu. Đã có những trường hợp bị bỏng đường hô hấp giữa và dưới do nạn nhân hít thở phải nhiều khói khí của đám cháy nhưng phải đến ngày thứ 6 hoặc thứ 12 mới có biểu hiện rõ các triệu chứng bỏng đường hô hấp như khàn giọng, niêm mạc đường hô hấp bị bỏng, nút khí phế quản... Do đó cần đặc biệt chú ý theo dõi các nạn nhân bị bỏng do lửa cháy, bỏng do hơi nước hoặc bỏng do các vụ nổ trong các buồng kín. Các triệu chứng lâm sàng được ghi nhận do bỏng đường hô hấp là nạn nhân khó nuốt, khó nói; có cảm giác khó chịu ở cổ họng, nền lưỡi. Triệu chứng nói khàn nhưng không mất giọng hoàn toàn, giọng nói có biến đổi. Ho khàn xảy ra trong những ngày đầu, những ngày sau đó ho có đờm; có thể thấy đờm đen màu bò hóng, có bọt, có các tia máu. Nạn nhân khó thở, có khi thấy mặt tím tái; sự thở khó làm co kéo vùng nền xương ức và các kẽ liên sườn. Có hiện tượng thở nhanh với tần số từ 32 đến 56 lần/phút và thở cạn. Nghe phổi ghi nhận tiếng thở yếu, thô, có khi nghe được ran rít, ran ướt, ran lép bép... Có triệu chứng sốt cao từ 39 đến 40oC; huyết áp động mạch giảm thấp; nước tiểu ít thường dưới 20 đến 30 ml/giờ. Điều trị bỏng đường hô hấp thường tập trung thực hiện việc phong bế dây thần kinh phế vị giao cảm, thở qua sonde bằng khí dung với dung dịch quy định, thở oxy tùy theo trường hợp được chỉ định; dùng các thuốc chống viêm, giảm phù nề; hướng dẫn nạn nhân tập thở, ho, khạc đờm; trong những trường hợp cần thiết có thể mở khí quản. Ngoài ra, cần đề phòng biến chứng phù phổi cấp. Nạn nhân bị bỏng đường hô hấp phải được điều trị, theo dõi tại bệnh viện có đủ trang thiết bị y tế và bác sĩ có nhiều kinh nghiệm.