Tình hình sốt rét 6 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008
Bệnh nhân sốt rét (BNSR):
Toàn khu vực tăng 6,37% (7.895/7.422) so với cùng kỳ năm 2008, trong đó miền Trung tăng 4,95%, Tây Nguyên tăng 8,40%.
7/15 tỉnh có số BNSR tăng là Quảng Trị (+73,67%), Bình Thuận (+64,22%), Gia Lai (+32,64%), Phú Yên (+15%), Quảng Nam (+14,99%), Ninh Thuận (+11,25), Đăk Lăc (+4,10%);
8/15 tỉnh có số BNSR giảm là Quảng Ngãi (-43,72%), Thừa Thiên-Huế (-26,29%), Quảng Bình (-22,71%), Bình Định (-20,74%), TP. Đà Nẵng (-6,25%), Khánh Hòa (-3,61%), Đăk Nông (-2,28%), Kon Tum (-0,94%).
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR):
Toàn khu vực tăng 49,34% (0,67/0,45) so với cùng kỳ 2008, trong đó miền Trung tăng 53,75%, Tây Nguyên tăng 42,90%.
11/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR tăng là Gia Lai (+106,55%), Khánh Hòa (+100,06%), Bình Thuận (81,26%), Quảng Nam (+73,22%), Đak Lak (+57,57%), Ninh Thuận (+47,13%), Quảng Trị (+46,09%), Bình Định (+31,89%), Kon Tum (+18,73%), Quảng Ngãi (+15,11%), Phú Yên (+2,67%).
4/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR giảm là Quảng Bình (-22,71%), TP.Đà Nẵng (-20,79%), Thừa Thiên-Huế (-17,59%), Đak Nông (-7,54%).
Sốt rét ác tính SRAT):
Toàn khu vực có 37 trường hợp SRAT, tăng 10 trường hợp so với cùng kỳ 2008 (37/27), trong đó miền Trung tăng 3 ca (21/18), Tây Nguyên tăng 7 ca (16/9).
Tỉnh có số SRAT tăng cao gồm Ninh Thuận (15/8), Gia Lai (5/1), Kon Tum (4/1) và Đak Lak (6/4).
Tử vong sốt rét (TVSR):
Toàn khu vực có 3 ca TVSR ở các tỉnh Gia Lai (1), Đăk Nông (1) và Ninh Thuận (1); tăng 2 ca so với cùng kỳ năm 2008 (3/1).
Cả 3 trường hợp TVSR đều nhập viện quá muộn từ 2-7 ngày sau khởi bệnh dẫn đến biến chứng nặng và tử vong trước 24 giờ quá khả năng cấp cứu của các tuyến điều trị
Dịch sốt rét: không xảy ra.
Như vậy trong 6 tháng đầu 2009 so với cùng kỳ năm trước, số mắc toàn khu vực tăng 6,37%, số chết tăng 2 ca so với mục tiêu đề ra; đáng lưu ý là các tỉnh có số BNSR, KSTSR đều gia tăng hoặc có TVSR là Quảng Trị, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Quảng Nam, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận tập trung ở các nhóm dân di biến động ngoài tầm kiểm soát của ngành y tế thuộc các vùng nguy cơ sốt rét cao nên khả năng sốt rét bùng phát trở lại và xảy dịch trong các tháng cuối năm 2009 là rất lớn; trong đó tỉnh Quảng Trị trong tháng 5-6/2009 sốt rét có khả năng bùng phát thành dịch ở huyện Hướng Hóa do giao lưu biên giới Việt-Lào, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã nhanh chóng phối hợp với ngành y tế tỉnh Quảng Trị tiến hành giám sát dịch tễ để xác minh dịch sốt rét và kịp thời chỉ đạo các biện pháp can thiệp.
Nguyên nhân gia tăng bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét:
Nguyên nhân chủ quan:
Người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng, nhất là tỷ lệ ngủ màn thấp tạo điều kiện thuận lợi cho sự lan truyền bệnh tự nhiên trên diện rộng vào thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh.
Khả năng cắt đứt lan truyền sốt rét còn hạn chế tại khu vực biên giới Việt-Lào, đặc biệt là ở các đối tượng trẻ em < 15 tuổi, dân địa phương sang Lào làm rẫy/ngủ rẫy dài ngày kể cả người Lào sang địa phương; phía cộng đồng Lào không được bảo vệ phòng chống sốt rét, hợp tác của phía Lào không tích cực, khó kiểm soát bệnh sốt rét do giao lưu biên giới qua các đường tiểu ngạch.
Biện pháp cấp thuốc tự điều trị (Stand-by treatment) chưa hiệu quả, trong khi vectơ truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus) có xu hướng phục hồi và mầm bệnh (KSTSR) vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân.
Y tế cơ sở chưa phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh nhân, khả năng cấp cứu sốt rét ác tính của bệnh viện tuyến huyện còn hạn chế cùng với bệnh nhân không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị nên dẫn đến các biến chứng muộn, tử vong sốt rét tăng cao.
 |
Các cán bộ sốt rét trèo đèo, lội suối vượt ngàn chông gai để đến những vùng miền xa xôi -nơi có sốt rét lưu hành (ảnh: Thanh Tuấn) |
Nguyên nhân khách quan:
Các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới của khu vực miền Trung-Tây Nguyên đều thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng có đặc điểm dịch tễ học sốt rét phức tạp thuận lợi cho sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét.
Chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho các nhóm dân di biến động (dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới), chưa có sự hợp tác với nước bạn trong kiểm soát sốt rét biên giới.
Mặc dù công tác điều trị đúng theo phác đồ nhưng có thể những năm gần đây do thiếu thuốc Primaquine có thể ảnh hưởng đến việc cắt đường lây lan ở các trường hợp sốt rét do P.falciparum cũng như chống tái phát xa sốt rét do P.vivax.
Thời tiết biến động bất thường tạo môi trường thuận lợi cho muỗi truyền bệnh phát triển, ngoài ra cần đề cập đến quy luật phát sinh dịch theo chu kỳ 3-5 năm sau quá trình sốt rét giảm thấp.
Đánh giá kết quả các hoạt động phòng chống sốt rét 6 tháng/2009
Tổ chức chỉ đạo:
Dự báo tình hình sốt rét gia tăng tại các vùng trọng điểm, ngay từ đầu năm 2009 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã đã gửi nhiều Công điện khẩn đến các Sở Y tế, Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng và các bệnh viện tuyến tỉnh cảnh báo nguy cơ sốt rét, chỉ đạo tăng cường các biện pháp phòng chống sốt rét tại các địa phương; đồng thời Lãnh đạo Viện cùng các khoa/phòng liên quan đã trực tiếp chỉ đạo phòng chống sốt rét tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Đặc biệt là Viện đã phối hợp với tỉnh Quảng Trị điều tra xác định nguyên nhân sốt rét gia tăng ở xã Xy thuộc huyện biên giới Hướng Hóa và áp dụng các biện pháp can thiệp nhằm ngăn chặn dịch.
Thực hiện sự chỉ đạo của Viện, các tỉnh trong khu vực đã kịp thời thông báo cho các huyện tăng cường biện pháp phòng chống sốt rét, bổ sung các biện pháp can thiệp ở vùng có nguy cơ gia tăng sốt rét như vùng dân di biến động, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa; cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp ở địa phương vẫn duy trì sự quan tâm chỉ đạo PCSR đúng mức, nhất là ở các vùng sốt rét trọng điểm.
Màng lưới chuyên khoa sốt rét các tuyến đã chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp chuyên môn kỹ thuật trong các chiến dịch PCSR và tích cực khống chế các vùng sốt rét có biến động (các khu vực có dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy và giao lưu biên giới); màng lưới y tế cơ sở (y tế huyện, xã, thôn, bản, điểm kính hiển vi) đã tham gia tích cực các hoạt động kiểm soát sốt rét, tuy nhiên công tác phát hiện điều trị sớm và quản lý bệnh nhân sốt rét tại cơ sở còn nhiều khó khăn, nhất là vùng biên giới Việt Lào thuộc tỉnh Quảng Trị do chưa có sự hợp tác biên giới trong kiểm soát sốt rét.
| |
TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký giao ban đánh giá kết quả phòng chống sốt rét và Nguyên 6 | sinh trùng Quy Nhơn phát biểu khai mạc Hội nghị các bệnh ký sinh trùng khu vực miền Trung-Tây tháng đầu năm 2009 |
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch:
Viện đã phối hợp với các tỉnh trong khu vực tổ chức nhiều đoàn giám sát dịch tễ sốt rét tại các vùng sốt rét trọng điểm và các vùng có nguy cơ sốt rét cao để đánh giá tình hình sốt rét, đề xuất giải pháp và khống chế nguy cơ sốt rét gia tăng.
Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp PCSR và bổ sung các biện pháp phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn và điều trị bệnh nhân ở những vùng có nguy cơ xảy dịch cao; công tác giám sát dịch tễ vùng trọng điểm và chế độ giao ban hàng tháng từ dưới lên giữa xã, huyện, tỉnh được duy trì thường xuyên, nhờ đó thông tin được phân tích, kịp thời khống chế gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch. Nhiều tỉnh trong khu vực cũng đã chỉ đạo các tuyến xây dựng hệ thống dự báo dịch sớm, bước đầu phát huy vai trò trong công tác giám sát dịch tễ.
Các địa phương gửi báo cáo sốt rét về Viện đúng thời gian quy định do đó Viện đã báo cáo kịp thời cho Bộ Y tế và phản hồi cho các địa phương; tuy nhiên do có sự thay đổi biểu mẫu thống kê báo cáo nên Viện đang hiệu chỉnh phần mềm quản lý sốt rét (MMS), dự kiến trong tháng 8 sẽ hoàn thành và tổ chức hướng dẫn cho cán bộ dịch tễ và thống kê của các tỉnh trong khu vực triển khai thực hiện.
Phòng chống vectơ:
Viện đã cung cấp hoá chất phun tẩm cả năm, đảm bảo cho các tỉnh triển khai đúng kế hoạch phun tồn lưu bảo vệ cho 136.720 người; tẩm 265.764 màn bảo vệ cho 549.761 người trước khi mùa bệnh phát triển trong 6 tháng đầu năm 2009; ngoài ra còn cấp bổ sung hóa chất cho các tỉnh Gia Lai, Đăk Nông, Kon Tum và Khánh Hòa kịp thời tăng cường biện pháp phòng chống véc tơ bổ sung cho các vùng có sốt rét gia tăng và vùng trọng điểm.
Công tác phòng chống vectơ 6 tháng đầu năm 2009
STT | Khu vực | TS dân được bảo vệ | Lượt dân số bảo vệ | Số màn được tẩm |
Phun tồn lưu (Fendona) | Tẩm màn |
1 | Miền Trung | 337.426 | 83.741 | 253.685 | 129.870 |
2 | Tây Nguyên | 349.055 | 52.979 | 296.076 | 135.894 |
3 | Toàn miền | 686.481 | 136.720 | 549.761 | 265.764 |
Chẩn đoán, điều trị và quản lý thuốc sốt rét:
Viện đã cấp đủ thuốc sốt rét theo kế hoạch năm 2009, đáp ứng yêu cầu điều trị bệnh nhân sốt rét của các cơ sở y tế trong khu vực, đặc biệt là thuốc sốt rét được cấp đến y tế thôn bản giúp cho công tác điều trị sớm bệnh nhân cũng như cấp tự điều trị cho các đối tượng làm ăn xa cơ sở y tế trong các vùng sốt rét lưu hành theo chỉ định.
Các tỉnh đã chỉ đạo tăng cường phát hiện sớm, điều trị kịp thời, phát huy hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi nhằm hạn chế sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét; tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm có 3 tỉnh không gửi lam kiểm tra kỹ thuật là Ninh Thuận, Kon Tum và Đăk Lắc; 12/15 còn lại gửi lam có tỷ lệ sai sót chung là 0,08%, trong đó miền Trung sai sót 0,06%, Tây Nguyên sai sót 0,15%.
Kết quả thực hiện công tác điều trị 6 tháng đầu năm 2009
STT | Khu vực | Tổng số liều thuốc cấp theo kế hoạch năm 2009 | Tổng số liều thuốc điều trị trong 6 tháng đầu 2009 |
1 | Miền Trung | 174.500 | 35.411 |
2 | Tây Nguyên | 76.000 | 14.215 |
3 | Toàn miền | 250.500 | 49.626 |
Truyền thông giáo dục và xã hội hoá PCSR
Công tác TTGD và XHH PCSR đạt hiệu quả là một trong những yếu tố bền vững củng cố thành quản PCSR, vì vậy công tác này được quan tâm và triển khai rộng ở các địa phương dưới nhiều hình thức.
- Nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm: 26.813 lần; 6.332.363 lượt người nghe
- Truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình : 2.743 lần cho 3.993 lượt người nghe
- Chiếu Video và biểu diễn văn nghệ: 349 buổi cho 1.704.041 lượt người xem.
- Phát tranh, tờ rơi:24.270 tranh, tờ rơi. Xây dựng: 02 pano truyền thông PCSR. Viết 20 bài cho các báo, đài.
- Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn tiến hành tổ chức Hội thi nâng cao kiến thức phòng chống sốt rét tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Tổ chức kỷ niệm ngày sốt rét thế giới 25 tháng 4 tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đak Lak.
- 15 tỉnh trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên chọn mỗi tỉnh một huyện trọng điểm để tổ chức ra quân thực hiện chiến dịch phòng chống sốt rét nhân ngày sốt rét thế giới 25-4.
Đào tạo và đào tạo lại:
Viện tiếp tục đào tạo 3 lớp Trung học xét nghiệm cạnh Viện, chuẩn bị tổ chức thi tốt nghiệp cho Khóa 30; hối hợp với Khoa Y Dược-Trường Đại học Tây Nguyên giảng dạy chuyên ngành ký sinh trùng và hướng dẫn các học viên cao học chuyên ngành ký sinh trùng và côn trùng.
Các tỉnh trong khu vực đã tiến hành đào tạo 524 lớp cho 11.638 học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, xét nghiệm viên các tuyến nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại địa phương.
Nghiên cứu khoa học:
Viện đã phối hợp với các tỉnh triển khai các đề tài NCKH cấp Bộ, đề tài cấp cơ sở và đề tài hợp tác quốc tế về các lĩnh vực dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, ký sinh trùng đường ruột, lâm sàng và điều trị sốt rét.
Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản về di truyền sinh học, sinh học phân tử, miễn dịch học, nuôi cấy liên tục KSTSR, siêu âm, điện tim...
Định hướng phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2009
Mục tiêu phòng chống sốt rét năm 2009:
Mục tiêu chung:
Tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét ở các vùng trọng điểm, các vùng sốt rét có nguy cơxảy dịch vàphát triển các yếu tố bền vững nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại.
Mục tiêu cụ thể:
- Giảm mắc sốt rét 5% so với 2008, năm 2009 còn 1,17 0/00 DSC.
- Giảm chết sốt rét 5% so với 2008, năm 2009 còn 0,08 0/0000 DSC.
- Ngăn chặn không để dịch sốt rét xảy ra, nếu có phải dập tắt kịp thời.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các yếu tố bền vững và xã hội hoá phòng chống sốt rét nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại, duy trì thành quả phòng chống sốt rét lâu dài.
Các chỉ tiêu năm 2009:
- Dân số được bảo vệ bằng hoá chất diệt muỗi :3.744.000người.
Trong đó:
+ Bảo vệ bằng phun hoá chất tồn lưu:617.000người
+ Bảo vệ bằng màn tẩm hoá chất:3.127.000người
- Số lượt người được điều trị sốt rét:286.500lượt
- Số lam máu phát hiện:805.000lam
Các giải pháp thực hiện chính:
Giải pháp về tổ chức chỉ đạo thực hiện:
Trong giai đoạn sốt rét giảm thấp dễ nảy sinh tư tưởng chủ quan nên công tác phòng chống sốt rét cần được sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền các cấp, sự tham gia tích cực của các đoàn thể và sự hưởng ứng của cộng đồng.
Giải pháp về chuyên môn kỹ thuật :
Tăng cường chỉ đạo, giám sát, kiểm tra tình hình sốt rét ở các vùng trọng điểm nhằm phát hiện và xử lí kịp thời khi sốt rét biến động và gia tăng; nâng cao chất lượng kỹ thuật phun, tẩm phòng chống vector ; nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét ở tất cả các tuyến ; đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục-xã hội hoá phòng chống sốt rét.
Tập trung chỉ đạo các biện pháp PCSR có hiệu quả cho đối tượng có nguy cơ sốt rét cao, dân di cư tự do, người đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới ; các công trình trọng điểm của Nhà nước như giao thông, thuỷ điện, thuỷ lợi...
Trọng tâm công tác phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2009:
Hiện nay sốt rét đang gia tăng ở nhiều vùng, dự báo có thể tiếp tục tăng cao vào các tháng cuối năm (mùa mưa bão và mùa truyền bệnh) và có khả năng bùng phát thành dịch ; mục tiêu trước mắc là hạn chế lây lan trong cộng đồng, không để xảy ra tử vong và ngăn chặn sự phát triển dịch sốt rét nên trọng tâm công tác phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2009 như sau :
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch:
Tiếp tục chỉ đạo triển khai kế hoạch PCSR phù hợp cho từng địa phương, tăng cường kiểm tra, giám sát dịch tễ sốt rét các vùng trọng điểm , các vùng di biến động dân để phát hiện và xử lý kịp thời, ngăn chặn sự gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch.
Cấp thuốc tự điều trị cho người dân khi đi xa cơ sở y tế dài ngày bằng Arterakin, nhất là các đối tượng di dân tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới và điều trị có kiểm soát tại cộng đồng; hỗ trợ phòng chống sốt rét tại các điểm nóng, các vùng có thiên tai lũ lụt về nhân lực (các đoàn công tác) và vật lực (hóa chất phun tẩm, thuốc sốt rét, kinh phí phòng chống dịch).
Chuẩn bị sẵn sàng cơ số thuốc sốt rét, hóa chất diệt, vật tư cần thiết và kinh phí phòng chống dịch để cấp bổ sung cho các tỉnh có dịch sốt rét xảy ra hoặc thiên tai lũ lụt.
Hướng dẫn các tuyến tỉnh/huyện nâng cao chất lượng thống kê, báo cáo, phân tích số liệu và dự báo dịch sốt rét kịp thời thông qua các biểu mẫu mới và phần mềm quản lý sốt rét (MMS).
Có văn bản trình Bộ Y tế về Đề án kiểm soát bệnh tại khu vực biên giới và đề nghị nguồn kinh phí hỗ trợ thực hiện.
Giám sát véctơ và phòng chống vectơ:
Triển khai phun, tẩm hoá chất trên cơ sở phân vùng dịch tễ sốt rét can thiệp và đảm bảo độ bao phủ theo kế hoạch được giao; chỉ định phun tẩm hóa chất bổ sung cho những vùng trọng điểm có khả năng xảy dịch, tỷ lệ đạt thấp.
Nâng cao chất lượng kỹ thuật phun tồn lưu hoá chất và tẩm màn diệt muỗi ; Viện phối hợp với các tỉnh tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng phun, tẩm trong các đợt triển khai chiến dịch.
Tuyên truyền vận động nhân dân nằm màn, đi rừng ngủ rẫy phải mang theo màn nằm để bảo vệ cá nhân; vận động người dân ngủ màn khi ở nhà cũng như khi đi sang biên giới hoặc vào nương rẫy.
Tăng cường giám sát véctơ sốt rét và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng chống véctơ ở các vùng trọng điểm, vùng có di biến động dân và các vùng có nguy cơ xảy dịch.
Quản lý, sử dụng và bảo quản tốt bình phun, hoá chất diệt muỗi, tránh thất thoát, hư hỏng.
Chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét:
Tuyến y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) chú trọng phát hiện và điều trị sốt rét kịp thời cho các đối tượng di biến động dân, người đi vào vùng sốt rét lưu hành khi trở về mắc sốt rét; tuyến Viện và tỉnh cử đoàn điều trị xuống các điểm nóng hỗ trợ chẩn đoán và điều trị sốt rét tại cơ sở để giảm tử vong do sốt rét.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi giúp phát hiện sớm và điều trị kịp thời các ca bệnh sốt rét tại cơ sở, tăng cường kết hợp quân dân y trong phòng chống sốt rét ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát chất lượng chẩn đoán, điều trị sốt rét và tổ chức tập huấn cho các tuyến bệnh viện tỉnh/huyện thuộc các vùng sốt rét trọng điểm, có tử vong sốt rét cao và năng lực chẩn đoán, điều trị sốt rét còn hạn chế.
Đảm bảo cung cấp đủ thuốc sốt rét có hiệu lực cao (thuốc phối hợp Dihydroartemisinine + Piperakin, thuốc Artesunate tiêm) theo kế hoạch đã duyệt hoặc cấp bổ sung theo yêu cầu địa phương; cung cấp thuốc Primaquine để diệt giao bào chống lây lan và cấp thuốc sốt rét miễn phí đến tận thôn, bản, quản lý chặt chẽ bệnh nhân sốt rét, chủ động phát hiện bệnh tại cộng đồng đặc biệt khu vực biên giới.
 |
Phối hợp tổ chức Hội thi kiến thức PCSR và truyền hình trực tuyến hỏi đáp về PCSR tại Hướng Hóa - Quảng Trị |
Truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét:
Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục-xã hội hoá phòng chống sốt rét bằng các phương tiện và hình thức phù hợp với từng địa phương
Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của màng lưới truyền thông viên, cung cấp các tài liệu, tranh, ảnh, băng cassette, video về PCSR. Phối hợp tổ chức Hội thi kiến thức PCSR và truyền hình trực tuyến hỏi đáp về PCSR ở các vùng trọng điểm sốt rét, vùng sâu, vùng xa.
Kết hợp có hiệu quả với các ban ngành, đoàn thể: Quân y, Hội chữ thập đỏ, Thông tin văn hoá, Giáo dục để phát động các chiến dịch truyền thông giáo dục về PCSR.
Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại về phòng chống sốt rét:
Đào tạo 2 lớp kỹ thuật viên trung cấp dài hạn và1 lớp KTVTC vừa học vừa làmcho cáctỉnh trong khu vực; phối hợp vớiTrường Đại học Tây Nguyên đào tạo cao học chuyên ngành Ký sinh trùng tại Viện.
Tổ chức 1 lớp tập huấn nâng cao kỹ thuật cho cán bộ côn trùng tuyến tỉnh theo nguồn kinh phí Dự án Quốc gia PCSR và 2 lớp đào tạo ngắn hạn về quản lý sốt rét tuyến huyện theo nguồn kinh phí của Dự án Quỹ toàn cầu PCSR, ngoài ra còn phối hợp với các tỉnh trong khu vực đào tạo tại chỗ kỹ thuật xét nghiệm KSTSR cho các tuyến theo nguồn ngân sách chuuwong trình cấp cho địa phương.
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế:
Tiếp tục triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đềkhó khăn tồn tại trong PCSR hiện nay; Hợp tác với Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Viện nghiên cứu sốt rét quân đội Australia, Viện vệ sinh phòng dịch quân đội nghiên cứuKSTSR kháng thuốc và đánh giá hiệu lực thuốc điều trị sốt rét.
Ưng dụng có hiệu quả Trang tin điện tử (Website ) của Viện để phát triển hệ thống thông tin về chuyên ngành và phát triển các hoạt động công nghệ thông tin theo chỉ đạo của Bộ Y tế như mạng thông tin nội bộ (LAN), giao ban trực tuyến (Tele-conference), hộp thư điện tử (Email) và các phần mềm quản lý.
Quản lý thuốc sốt rét, hoá chất, vật tư,kinh phí PCSR:
Tổ chức kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng và báo cáo thuốc sốt rét, hoá chất, vật tư và kinh phí theo quy định của Dự án Quốc gia PCSR; không để thuốc sốt rét, hoá chất quá hạn, kém phẩm chất hoặc thất thoát; quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vật tư, kinh phí của Dự án Quỹ toàn cầu cung cấp.
Hướng dẫn các tỉnh xây dựng kế hoạch PCSR năm2010 phù hợp với nhu cầu thực tế gửi về Viện và Dự án quốc gia PCSR trước ngày 15/8/2009 để kịp duyệt và trình Bộ Y tế trước tháng 9/2009.