Ngày 15/07/2008, Hội nghị giao ban sơ kết công tác phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng khu vực miền Trung-Tây Nguyên 6 tháng đầu năm 2008 đã được tổ chức tại Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn. Đến dự giao ban có TS. Nguyễn Huy Nga-Cục trưởng và chuyên viên Cục Y tế dự phòng & Môi trường-Bộ Y tế; TS.Nguyễn Mạnh Hùng - Viện trưởng, Trưởng ban điều hành Dự án quốc gia PCSR và chuyên viên Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương; TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng và Lãnh đạo Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn; Th.S Lương Trường Sơn-Phó Viện trưởng và chuyên viên Viện Sốt rét-Ký sinh trùng & Côn trùng Tp.Hồ Chí Minh; Đại biểu đến từ 15 Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP, các đơn vị Quân y, Công ty cao su thuộc địa bàn khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Hội nghị đã nghe báo cáo đánh giá công tác phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng, côn trùng của 3 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng và hướng dẫn xây dựng kế hoạch PCSR năm 2009 cùng nhiều ý kiến tham luận và thảo luận của các đại biểu.
Kết quả hoạt động phòng chống sốt rét:
6 tháng đầu năm 2008 tình hình sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên chưa có diễn biến gì đặc biệt so với cùng kỳ năm 2007 và đạt được các mục tiêu giảm mắc, giảm chết, không xảy dịch. Tuy nhiên sự giảm tỷ lệ bệnh không mang tính bền vững do đặc điểm sốt rét phức tạp, di biến động dân cư lớn, người dân sống trong vùng sốt rét chưa có ý thức tự bảo vệ, màng lưới y tế cơ sở hoạt động hạn chế, đời sống kinh tếkhó khăn, hầu hết các cơn bão hàng năm đều đổ vào khu vực này nên nguy cơ sốt rét quay trở lại bất cứ lúc nào nhất là vào thời điểm đỉnh cao mùa bệnh 6 tháng cuối năm.
Các chỉ sốt rét 5 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ 2007
Bệnh nhân sốt rét ( BNSR):Toàn khu vực giảm 35%; miền Trung giảm 34,83%, Tây Nguyên giảm 35,23%; có12/15 tỉnh giảm vượt mục tiêu; 3/15 tỉnh không giảm hoặc giảm chậm là Ninh Thuận, Bình Thuận và Kon Tum.
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR): Tỷ lệ KSTSR/lam toàn khu vực giảm 45,32%; miền Trung giảm 45,94%, Tây Nguyên giảm 44,62%; có 14/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR giảm, 1/15 tăng là Ninh Thuận (+16,11%).
Sốt rét ác tính (SRAT): 22 ca (miền Trung 15, Tây Nguyên 7
Tử vong sốt rét (TVSR):1 ca ở Đăk Nông.
Dịch sốt rét:không xảy ra.
Đánh giá kết quả hoạt động phòng chống sốt rét 6 tháng đầu năm 2008
Tổ chức chỉ đạo:
Viện cùng các tỉnh trong khu vực đã tăng cường chỉ đạo phòng chống sốt rét để kịp thời dự báo và ngăn chặn nguy cơ sốt rét gia tăng ở các vùng trọng điểm. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương vẫn duy trì sự quan tâm đầu tư đúng mức, không có tư tưởng chủ quan, lơ là trước xu hướng tình hình sốt rét ngày càng giảm thấp.
Màng lưới chuyên khoa sốt rét chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng kỹ thuật các biện pháp thực hiện trong chiến dịch PCSR và tích cực khống chế các vùng sốt rét có biến động (khu vực có dân di cư tự do định cư, dân đi rừng ngủ rẫy, giao lưu biên giới), màng lưới y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) nâng cao chất lượng phát hiện, điều trị sớm và quản lý chặt chẽ bệnh nhân sốt rét.
|
TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương- Chủ nhiệm Dự án quốc gia PCSR báo cáo sơ kết công tác phòng chống sốt rét 6 tháng đầu năm 2008 |
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch:
Dự báo tình hình sốt rét có thể diễn biến phức tạp ở một số vùng, Viện đã tăng cường các đoàn giám sát một số tỉnh Tây Nguyên (Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông) và miền Trung (Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Ninh Thuận). Công tác giám sát dịch tễ vùng trọng điểm và chế độ giao ban hàng tháng từ dưới lên giữa xã, huyện, tỉnh được duy trì thường xuyên; nhờ đó thông tin được phân tích, kịp thời khống chế gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch. Nhiều tỉnh trong khu vực cũng đã chỉ đạo các tuyến xây dựng hệ thống dự báo dịch sớm, phát huy vai trò trong công tác giám sát dịch tễ.
Các địa phương gửi báo cáo sốt rét đều hơn so với năm trước giúp Viện kịp thời báo cáo Bộ Y tế, tuy nhiên việc ứng dụng hệ thống phần mềm quản lý sốt rét (MMS) mới chỉ đạt hiệu quả ở một số tỉnh.
Vài năm gần đây tình hình sốt rét có xu hướng giảm thấp ở hầu khắp các tỉnh trong khu vực đã chủ động phân vùng dịch tễ sốt rét trong phạm vi địa bàn quản lý để có chỉ định biện pháp và lập kế hoạch phòng chống sốt rét phù hợp hàng năm.
Phòng chống vectơ:
Viện đã cung cấp hoá chất phun tẩm cả năm đảm bảo cho việc triển khai đúng kế hoạch; trong 5 tháng đầu 2008 các tỉnh phun hóa chất bảo vệ cho 167.915 người, tẩm 244.909 màn, bảo vệ cho 496.436 người.
Công tác bảo quản bình phun và xử lý bao bì hóa chất theo đúng quy định của Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét.
Chẩn đoán, điều trị và quản lý thuốc sốt rét:
Các tỉnh đã sử dụng 55.976 liều thuốc điều trị các loại, trong đó Miền Trung 41.074 liều, Tây Nguyên 14.902 liều. Tăng cường chỉ đạo công tác điều trị bệnh nhân sốt rét, phát huy vai trò hoạt động của điểm kính hiển vi và hiệu quả biện pháp tự điều trị (stand-by treatment) nhằm hạn chế biến chứng và tử vong do sốt rét, bước đầu cấp cơ số thuốc sốt rét cho y tế thôn bản có đủ khả năng thực hiện và quản lý bệnh nhân tại cơ sở.
Tuy nhiên tình trạng sốt rét giảm thấp làm cho các tuyến bệnh viện thiếu kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị sốt rét ác tính, tuyến xã mới chỉ ở trình độ cấp thuốc thay vì theo dõi điều trị sốt rét, tuyến thôn bản chưa đủ khả năng kiểm soát bệnh nhân, các điểm kính hiển vi hoạt động không hết công suất hoặc không hoạt động do thiếu xét nghiệm viên và kính bị hư hỏng, một số nơi còn tồn đọng thuốc sốt rét.
|
Các đại biểu tham dự Hội nghị |
Truyền thông giáo dục và xã hội hoá PCSR
Các địa phương tiến hành TTGD và xã hội hóa PCSRdưới nhiều hình thức như nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm 20.250 lần cho 3.524.186 lượt người nghe; truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình 1.744 lần cho 3.422 lượt người nghe; chiếu Video và biểu diễn văn nghệ 429 buổi cho 3.041.450 lượt người xem; phát 10.000 tranh, tờ rơi; xây dựng 2 pano truyền thông PCSR
Viện tổ chức lễ phát động “Ngày sốt rét thế giới 25 tháng 4” tại TP. Huế và Quy Nhơn, các tỉnh trong khu vực tổ chức chiến dịch truyền thông phòng chống sốt rét nhân ngày 25/4 xuống tận cơ sở.
Tại Hội thảo điều chỉnh vật liệu truyền thông của Dự án QTC PCSR thống nhất nội dung thông điệp truyền thông cần ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với đặc thù sốt rét địa phương và dân tộc; việc sản xuất vật liệu truyền thông cần có sự phối hợp chặt chẽ với địa phương để mang lại hiệu quả cao trong thay đổi nhận thức cũng như hành vi phòng chống sốt rét của cộng đồng thay vì sản xuất ồ ạt như trước đây.
Đào tạo và đào tạo lại:
Viện tiếp tục đào tạo 3 lớp Kỹ thuật viên xét nghiệm Trung học hệ chính quy và 1 lớp hệ vừa học vừa làm, phối hợp với Trường Đại học Tây Nguyên đào tạo Cao học chuyên ngành ký sinh trùng; tổng kết 30 năm đào tạo (1977-2007).
Các tỉnh trong khu vực đã tiến hành đào tạo lại 307 lớp cho 7.892học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, xét nghiệm viên các tuyến về chuyên môn kỹ thuật phòng chống sốt rét.
Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế:
|
TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn báo cáo công tác phòng chống sốt rét 6 tháng đầu năm 2008 khu vực miền Trung-Tây Nguyên |
Viện đã phối hợp với các tỉnh triển khai thực hiện đề tài NCKH cấp Bộ, đề tài cấp cơ sở và đề tài hợp tác quốc tế về các lĩnh vực dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, ký sinh trùng đường ruột, lâm sàng và điều trị sốt rét; nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản về di truyền sinh học, sinh học phân tử, miễn dịch học, nuôi cấy liên tục KSTSR...
Hợp tác nghiên cứu sốt rét thực địa với Uỷ ban Y tế Việt Nam-Hà Lan (MCNV), Viện Sốt rét Quân đội Australia (AAMI); tham gia thực hiện Dự án phòng chống sốt rét Quỹ toàn cầu (VGF), Dự án phòng chống bệnh truyền nhiễm Tiểu vùng sông Mê Kông (ADB).
Quản lý chương trình/dự án:
Gửi công văn thông báo các tỉnh tăng cường nâng cao chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét, dự báo dịch và quản lý chặt chẽ các nguồn kinh phí đầu tư.
Tổ chức kiểm tra công tác quản lý chương trình mục tiêu phòng chống sốt rét ở các tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông và Quảng Ngãi chưa phát hiện sai sót gì lớn; các tỉnh đã nỗ lực sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư góp phần tích cực giảm thấp tình hình sốt rét trong thời gian qua.
Trọng tâm công tác phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2008:
6 tháng cuối năm 2008 là đỉnh cao của mùa truyền bệnh sốt rét, đồng thời là mùa mưa bão nên dự báo tình hình sốt rét có những diễn biến bất thường các hoạt động phòng chống sốt rét khu vực khu vực miền Trung-Tây Nguyên cần chú trọng các nội dung sau:
Về chuyên môn kỹ thuật:
  !important; -Chỉ đạo nâng cao chất lượng biện pháp phòng chống sốt rét tại các vùng trọng điểm sốt rét, giám sát chặt chẽ diễn biến véctơ truyền bệnh, giám sát dịch tễ sốt rét và dự báo sớm các vùng có nguy cơ sốt rét gia tăng để can thiệp kịp thời.
  !important; -Triển khai thực hiện mô hình quản lý dịch bệnh tại tuyến y tế cơ sở và dự báo sốt rét thông qua phần mềm quản lý sốt rét (MMS).
  !important; -Tăng cường công tác phát hiện, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét ở tuyến cơ sở; nhất là với các trường hợp nhiễm bệnh do đi rừng rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới.
  !important; -Tăng cường biện pháp truyền thông giáo dục, lựa chọn kênh truyền thông phù hợp và có hiệu quả cho từng đối tượng nhằm gia tăng tỷ lệ ngủ màn.
  !important; -Rà soát lại các vùng sốt rét để lập kế hoạch phòng chống sốt rét năm 2009 và có biện pháp chỉ đạo phù hợp với từng vùng.
  !important; -Đánh giá hiệu quả biện pháp tự điều trị (stand-by treament) đối với các nhóm dân di biến động xa cơ sở y tế và hiệu lực thuốc phối hợp có gốc Artemisinine (ACT) điều trị bệnh nhân sốt rét.
  !important; -Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, đề tài hợp tác quốc tế, tổ chức Hội thảo ứng dụng công nghệ thông tin và Hội thảo phòng chống sốt rét cho các nhóm dân di biến động tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Về quản lý chương trình/dự án:
-Lập kế hoạch phòng chống sốt rét năm 2009 theo hướng dẫn của Dự án QGPCSR gửi về Viện trước ngày 27/7/2008 để kịp duyệt kế hoạch cho các tỉnh vào 30-31/7/2008 và bảo vệ kế hoạch chương trình trong tháng 8/2008.
-Các tỉnh cần sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí đầu tư của các chương trình/dự án.
-Viện tăng cường kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư, kinh phí thực hiện của chương trình/dự án tại các tuyến để nâng cao hiệu quả các nguồn đầu tư.
Đánh giá kết quả Phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng6 tháng đầu năm 2008
|
Các đại biểu thảo luận tại Hội nghị |
Kết quả phòng chống giun sán:
Các hoạt động:
Viện đã tổ chức lớp tập huấn về chẩn đoán, điều trị các bệnh giun sán cho 30 học viên và cách xây dựng labo xét nghiệm giun sán cho 15 tỉnh trong khu vực theo nguồn ngân sách được cấp; tổ chức 3 lớp tập huấn về phòng chống các bệnh giun truyền qua đất cho lứa tuổi từ 2-5 tại 3 tỉnh Quảng Trị, Đà Nẵng, Đăk Lăk theo Dự án phòng chống bệnh truyền nhiễm các nước Tiểu vùng sông Mê Kông.
Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan lớn (SLGL) ở xã Canh Thuận, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định; điều tra đánh giá tình hình nhiễm sán lá gan nhỏ sau nhiều năm can thiệp tại 6 huyện của hai tỉnh Bình Định và Phú Yên; điều tra đánh giá tình hình nhiễm giun truyền qua đất cho học sinh tiểu học sau nhiều năm can thiệp phòng chống ở một số huyện của 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế; nghiên cứu điều tra thực trạng nhiễm giun móc/mỏ và thử nghiệm biện pháp can thiệp bằng điều trị ở một số vùng của 4 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai và Đăk Lăk.
Giám sát chương trình tẩy giun cho lứa tuổi từ 2-5 tại hai tỉnh Đà Nẵng, Đăk Lăk và tham dự Hội nghị tổng kết Dự án phòng chống các bệnh truyền nhiễm các nước Tiểu vùng sông Mê Kông tại TP. Cần Thơ.
Tăng cường phát hiện và điều trị bệnh SLGL tại các tuyến điều trị và Phòng khám của Viện, thống kê báo cáo tình hình sử dụng thuốc Egaten ở các đơn vị.
Kết quả tẩy giun ở các trường tiểu học:
Kết quả tẩy giun các trường tiểu học ở 2 tỉnh Phú Yên và Thừa Thiên Huế cho 188.812 học sinh và giáo viên đạt 98,68%, chỉ có 0,2% có tác dụng phụ không đáng kể. Một số tỉnh như Khánh Hòa được cấp thuốc tẩy giun nhưng không có kinh phí triển khai, các tỉnh còn lại chưa được duyệt kế hoạch thực hiện trong năm 2008.
Kết quả phát hiện và điều trị bệnh SLGL:
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong 6 tháng đầu năm 2008 khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã phát hiện và điều trị 1.154 bệnh nhân SLGL; trong đó:
Tại 9/15 tỉnh khu vực 706 ca (61,18%), trong đó: Quảng Ngãi (250 ca), Quảng Nam (118 ca), Gia Lai (99 ca), Bình Định (88 ca), Đà nẵng (60 ca), Khánh Hòa (58 ca), Phú Yên (25 ca), Quảng Trị (4 ca) và Đăk Lăk (4 ca).
Tại Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn 448 ca (38,82%).
6/15 tỉnh khu vực chưa có số liệu là Quảng Bình, Thừa Thiên-Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum và Đăk Nông sẽ được bổ sung vào 6 tháng cuối năm 2008.
Tình hình sử dụng thuốc điều trị SLGL (Egaten) ở các tuyến được cấp:
Số thuốc điều trị đặc hiệu SLGL (Egaten 250 mg) do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cung cấp trong hai năm 2007-2008 cho khu vực miền Trung-Tây Nguyên là 11.762 viên đã được chuyển xuống các tuyến bệnh viện tỉnh/huyện và các phòng khám có bệnh nhân để đảm bảo điều trị ngay từ cơ sở.
Tuy nhiên do khả năng phát hiện bệnh nhân của các bệnh viện không đồng đều nên đến nay mới chỉ có dưới 50% số thuốc cấp được sử dụng, trên 50% số thuốc còn lại cần có kế hoạch điều tiết phù hợp cho những nơi có nhu cầu điều trị bệnh nhân vì hạn sử dụng chỉ đến tháng 10/2008.
Công tác thống kê báo cáo tình hình bệnh nhân SLGL và thuốc điều trị Egaten đã được Viện hướng dẫn và cung cấp biểu mẫu thống kê nhưng các tỉnh trong khu vực chưa chú trọng thực hiện nên khó khăn trong việc tổng hợp báo cáo Bộ Y tế.
Kế hoạch phòng chống giun sán 6 tháng cuối năm 2008:
-Điều tra tình hình nhiễm SLGL và một số yếu tố nguy cơ tại 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Gia Lai; nghiên cứu xác định vật chủ trung gian truyền bệnh sán lá gan nhỏ clonorchis sinensis tại xã Thuận Hạnh, huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.
-Kiểm tra công tác điều trị bệnh nhân SLGL và thuốc Egaten đã cấp tại một số tuyến điều trị để có kế hoạch điều tiết số thuốc tồn cũng như đề xuất WHO nhu cầu thuốc cần sử dụng trong năm 2009.
-Hỗ trợ kỹ thuật và dụng cụ xét nghiệm giun sán cho hai tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk.
Kết quả điều tra côn trùng lạ (bọ đen) tại tỉnh Kon Tum:
Đầu tháng 5/2008 ở một số tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ, đặc biệt là tại thôn Kép Ram, xã Hòa Bình, Thị xã Kon Tum xuất hiện nhiều côn trùng lạ (người dân địa phương gọi là bọ đen hoặc Ơ rưng) ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân địa phương được dư luận cũng như các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt quan tâm; để chủ động ngăn ngừa nguy cơ có thể gây bệnh, truyền bệnh của loại côn trùng này, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Quy Nhơn đã phối hợp với Trung tâm PCSR tỉnh Kon Tum điều tra xác minh để có cơ sở đề xuất biện phòng chống.
Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy đây là loài côn trùng cánh cứng thuộc bộ Coleopterae, giống Lophocateres thường xuất hiện vào ban đêm (khoảng 19-20 giờ) với mật độ cao 100-1000 con/m2 nơi có ánh sáng đèn và leo bám khắp nơi trong nhà; không gây bệnh và truyền bệnh, nhưng sự xuất hiện số lượng lớn của chúng đã làm ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày của người dân. Viện đã có Công văn báo cáo Bộ Y tế và phản hồi địa phương, tuy nhiên để có kết luận cụ thể và chính xác cần được nghiên cứu thêm.
Vì là côn trùng cánh cứng nên các hóa chất diệt thông thường không hiệu quả, biện pháp can thiệp trước mắt là vận động các hộ gia đình thu gom cho vào bao tải (thường 4-5 bao loại 50 kg/mỗi nhà) đem đi tiêu hủy (đốt xác) nhằm làm giảm sự phát tán ra những vùng xung quanh, vệ sinh môi trường xung quanh nhà ở để triệt nơi sinh sản và cư trú của chúng.
Kiến nghị phòng chống các bệnh ký sinh trùng & côn trùng
Các hạn chế trong phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng:
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được Bộ Y tế giao, hệ thống Viện Sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng có trách nhiệm tiếp cận 3 lĩnh vực kiểm soát dịch bệnh:
-Bệnh sốt rét (malaria);
-Các bệnh ký sinh trùng (Parasitic diseases): giun, sán ký sinh đường ruột và đường máu; nấm (Mycose), đơn bào ký sinh.
-Các bệnh do côn trùng truyền (Vector born diseases): sốt rét, sốt xuất huyết, giun chỉ bạch huyết, viêm não Nhật Bản B, sốt mò, sốt do ve truyền, leptospira và bệnh gây nên do các loài chân đốt (tiết túc y học) truyền.
Trong bối cảnh các bệnh ký sinh trùng cũng như các bệnh do côn trùng truyền ngày càng phát triển và đòi hỏi phải có quy mô phòng chống, nhưng hiện nay chuyên ngành Sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng mới chỉ có nguồn kinh phí chương trình phòng chống sốt rét mà không có nguồn kinh phí nghiên cứu chỉ đạo phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng nên rất khó khăn thực hiện các chức năng nhiệm vụ Bộ giao. Hoạt động phòng chống bệnh giun sán chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ nhỏ lẻ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thông qua mô hình tẩy giun các trường tiểu học, các hoạt động phòng chống bệnh do véc tơ truyền hầu như không thực hiện được vì không có nguồn kinh phí hỗ trợ.
Đề nghị:
Bộ Y tế phân công danh mục bệnh và đầu tư kinh phí phòng chống bệnh giun sán, các bệnh ký sinh trùng mới nổi (sán lá gan lớn, sán lá gan nhỏ, giun lươn, giun đũa chó); cấp hỗ trợ thêm nguồn kinh phí thuộc các chương trình khác để thực hiện nghiên cứu và chỉ đạo các bệnh do côn trùng truyền như sốt xuất huyết, giun chỉ bạch huyết, viêm não Nhật Bản B...
Nhà nước cho phép lập dự án dài hạn phòng chống các bệnh ký sinh trùng, trước mắt là các bệnh giun truyền qua đất và bệnh sán lá. Tăng kinh phí hàng năm 30% dự toán được duyệt, vì nguồn ngân sách chi thường xuyên quá hạn hẹp không đáp ứng thực hiện các chức năng nhiệm vụ được giao.