Trong hai ngày 25-26/6/2012, được sự hỗ trợ kinh phí của Quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) Viện Công nghệ sinh học (thuộc Viện Khoa học Việt Nam) đã tổ chức Hội thảo quốc tế "Bệnh kí sinh trùng động vật lây sang người mới xuất hiện: Dịch tễ, chẩn đoán và phòng trị ở các nước Châu Á" (Emerging parasitic zoonoses: epidemiology, diagnosis and prevention in Asian countries)
Trong điều kiện tự nhiên, bên cạnh những mầm bệnh ký sinh trùng “cố thủ riêng” của nhân loại như ký sinh trùng sốt rét, giun sán, amoeba,…còn đó đây những sinh vật chẳng phát triển, gây bệnh được trên loài người, mà còn sống và gây bệnh được trên nhiều loài động vật khác. Sống trong cùng một môi trường mối liên hệ giữa con người - môi trường - động vật sẽ có nhiều cơ hội truyền bệnh cho nhau là lẽ tất nhiên, chẳng qua điều đó còn tùy thuộc vào thời gian mà mầm bệnh từ động vật (có thể là vật nuôi cũng có thể là động vật hoang dại) đến khi nào thích nghi với điều kiện sống trên con người mới là thời điểm để các nhà khoa học lên tiếng cảnh báo, có lẽ khi đó đã hơi muộn để chúng ta tập trung nghiên cứu. Có khá nhiều vùng trên thể giới bị cùng lúc nhiều đại dịch, ổ dịch, vụ dịch với 1, 2, 3, 4 hoặc 5, 6 bệnh cùng một lúc, nên tính chất nghiêm trọng của bệnh có thể đe dọa đến sức khỏe rất lớn, thậm chí gây tử vong loạt ca bệnh cho loài người.
Tổ chức Y tế thế giới (1967) đã định nghĩa bệnh động vật (zoonosis) là những bệnh nhiễm trùng được truyền từ động vật có xương sống sang người trong điều kiện tự nhiên và ngược lại (Zoonoses: “Those diseases and infections which are naturally transmitted between vertebrate animals and man.”). Chính điều kiện sống gần gũi và thân thiện, thói quen nuôi thú cưng, nuôi thả rông, …cùng với sự thay đổi về điều kiện vi khí hậu toàn cầu cũng như hiện tượng El Nino và La Nina đã khiến cho mầm bệnh, đặc biệt là bệnh do ký sinh trùng có điều kiện phát triển, trổi dậy và bùng phát nhanh thành các đại dịch, vụ dịch lớn nhỏ khác nhau trên các quốc gia trên thế giới như dịch hạch, dịch cúm gia cầm, dịch SARS, Monkeypox, …cũng như một số bệnh lý nghiêm trọng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe nhân loại của ký sinh trùng. Nhìn nhận, tác hại của vấn đề liên đới bệnh không dừng lại và có nguy cơ lan rộng trước khi có biện pháp can thiệp hữu hiệu. Tổ chức Y tế thế giới đã phối hợp với tổ chức Lương nông thế giới (FAO) và Đơn vị giám sát các bệnh lây truyền của động vật (CSR) tại khu vực Tây Thái Bình Dương, cũng như tại Việt Nam tổ chức Hội thảo Các bệnh lây truyền từ động vật truyền sang người vào năm 2008 tại Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung trình bày tại hội thảo (2008) phần lớn tập trung vào các chuyên đề: tình hình dịch tễ các bệnh truyền nhiễm của động vật lây sang người trên thế giới và tại Việt Nam (virus H5N1, liên cầu lợn, bệnh bò điên, cúm gia cầm với các type khác nhau, bệnh Nipah, bệnh Monkeypox, bệnh sán lá gan lớn và một số bệnh do đơn bào, vi khuẩn, virus khác). Điểm nhấn của hội thảo này chính là dành phần lớn thời gian thảo luận về tầm quan trọng trong việc phối hợp liên ngành (lấy ví dụ tại một số quốc gia đã đạt hiệu quả tốt) trong công tác phòng chống dịch bệnh lây truyền từ động vật sang người trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cải cách hệ thống giám sát hiện tại và tiếp tục đề xuất lập một quy chế chia sẻ thông tin giữa các ngành, đặc biệt thú y và y tế (chẳng hạn hợp tác về mặt dịch tễ trong theo dõi các vụ dịch; đào tạo mảng dịch tễ học thực địa, hệ thống giám sát cổ điển và hiện đại; tăng nhu cầu nâng cao năng lực trong kế hoạch dài hạn tại các tuyến quốc gia..
Hội thảo về bệnh KST động vật lây sang người mới xuất hiện 2012.
Trong những năm gần đây các bệnh ký sinh trùng truyền qua thực phẩm từ động vật sang người ngày càng có điều kiện thuận lợi để phát triển và lan rộng. Bệnh do KST không chỉ gây ra các thiệt hại về kinh tế (kể cả kinh tế vật nuôi) mà còn tổn hại nghiêm trọng tới sức khỏe con người thậm chí gây tử vong. Trước tình hình bệnh ký sinh trùng tăng cao gây ảnh hưởng lớn trong cộng đồng, việc nghiên cứu dịch tễ học, chẩn đoán và đề xuất biện pháp phòng chống toàn diện là hết sức quan trọng. Tại Việt Nam, nghiên cứu bệnh ký sinh trùng động vật lây sang người đã đạt được những kết quả rất lớn và đang được sự quan tâm của cộng đồng khoa học thế giới. Trong giai đoạn hơn 15 năm qua, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu ký sinh trùng động vật lây sang người đã tập hợp được nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế, trong đó có hàng loạt công trình đăng trên các tạp chí quốc tế xuất phát từ những nghiên cứu tại Việt Nam. Viện Công nghệ sinh học đã định hướng và ứng dụng nhiều phương pháp mới, đặc biệt là ứng dụng sinh học phân tử trong nghiên cứu y sinh học phân tử nói chung và bệnh ký sinh trùng động vật lây sang người nói riêng tại Việt Nam.
Để tập hợp và tranh thủ sự hợp tác quốc tế, ngày 25/6/2012, Viện Công nghệ sinh học, với sự tài trợ kinh phí của Quỹ phát triển khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED), đã tổ chức Hội thảo quốc tế với chuyên đề: “Bệnh ký sinh trùng động vật lây sang người mới xuất hiện: Dịch tễ, chẩn đoán và phòng trị ở các nước Châu Á”. PGS.TS. Lê Thanh Hòa – Viện Công nghệ sinh học chủ trì hội thảo.
Tại hội thảo có 10 báo cáo khoa học được các nhà nghiên cứu danh tiếng trên thế giới đến từ các nước Thái Lan, Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa kỳ, Bỉ, Trung Quốc trình bày, trong đó có sự tham gia báo cáo của 2 nhà khoa học Việt Nam. Với các nội dung chủ yếu về thực trạng hiện tại các bệnh ký sinh trùng như bệnh sán lá (sán lá gan lớn và sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán lá ruột), sán máng, sán dây…, bệnh giun sán khác truyền qua thức ăn và động vật ở vùng châu thổ sông Mê Kông, Nhật Bản, Việt Nam và Trung Quốc; những vấn đề cần hiểu biết về sinh học các loài sán lá phổi liên quan gây nhiễm trên người; các phương pháp chẩn đoán sán lá ở người, chẩn đoán nhanh bệnh sán lá gan nhỏ Clonorchiasis bằng phản ứng huyết thanh học và phương pháp DNA – vòm ty thể chẩn đoán với Opisthorchis viverrini và Multiplex-PCR với Fasciola spp; những chú trọng đặc biệt về dịch tễ học, chẩn đoán và khống chế bệnh sán dây Taenia spp. ở Châu Á và những vấn đề bệnh KST động vật lây sang người ở Trung Quốc...
 |
 |
Toàn cảnh Hội thảo |
Sau mỗi báo cáo của các giáo sư trình bày là một số tham luận và câu hỏi đặt ra giữa các nhà khoa học với nhau, do đó, hội thảo lần này đã giúp cho các nhà khoa học Việt Nam có cơ hội học hỏi, trao đổi, thảo luận các kinh nghiệm nghiên cứu của các nước có trình độ khoa học tiên tiến trên thế giới, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác, định ra các hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.
Diễn tiến chung của một số bệnh truyền nhiễm truyền từ động vật lây sang người?
Do quá trình toàn cầu hóa, môi trường xấu đi, nhiều động vật có thể trở nên nguồn lây bệnh nguy hiểm.Việc động vật bị mắc bệnh rồi lây nhiễm sang người không có gì mới lạ. Nhưng những năm gần đây hay xảy ra những trường hợp như vậy: động vật ngày càng hay truyền cho người virút, vi trùng và ký sinh trùng. Các chuyên viên của Viện dị ứng và các bệnh lây nhiễm quốc gia Mỹ cho rằng, đây chỉ là chặng đầu của con đường dài: sắp tới, những căn bệnh mới sẽ xuất hiện càng nhiều hơn và gây thiệt hại càng nghiêm trọng hơn. Đó là do sự phát triển của các quá trình toàn cầu hóa, môi trường sinh thái xấu đi, con người ngày càng tiếp xúc mật thiết hơn với các loài động vật khác nhau. Hơn nữa nhiều loài động vật từ xa xưa không hề sống gần gũi với con người thì nay lại được con người thuần hóa. Những loài động vật đặc sản của châu Á nay lại được đưa vào thực đơn trên bàn ăn của cả người châu Âu.
Cơ cấu hiện đại của ngành sản xuất lương thực thực phẩm dẫn đến tình trạng là dịch bệnh xuất hiện trong gia súc có thể đe dọa đời sống và sức khỏe của hàng trăm nghìn người. Sự thay đổi của khí hậu làm thay đổi môi trường sống của chim di cư và côn trùng (như muỗi chẳng hạn). Chúng mang những tác nhân gây bệnh đi xa. Sự thay đổi môi trường sống của con người và động vật cũng làm biến đổi cả các cơ chế tác động của các tác nhân gây bệnh khác nhau. Laurie Garrett, tác giả cuốn sách “Trận dịch hạch tương lai” cho rằng khi mà tác nhân gây bệnh cho động vật chưa lây nhiễm sang người thì chưa thể biết quy mô đại dịch lớn đến chừng nào và không ai có thể tiên đoán được.
 |
Các đại biểu chụp hình lưu niệm tại Hội thảo |
14 loại bệnh chính mà con người mắc phải từ động vật đang được quan tâm
1. AIDS
Con người mắc phải virút HIV từ những loài vượn dạng người sống ở Trung Phi. Hiện đã có gần 24 triệu người chết vì bệnh này.
2. Bệnh viêm phổi cấp
Con người có thể đã lây bệnh này từ loài cầy hương. Dịch bệnh đã đánh vào hàng nghìn người, hàng trăm người trong số đó đã chết.
3. Bệnh sốt Denguen
Tác nhân gây bệnh này là muỗi. Những đợt dịch đầu tiên đã bùng phát vào những năm 1950 ở Thái Lan và Philippin. Trong những năm 1970 dịch đã lan sang 9 nước. Hiện nay dịch lẻ tẻ nổ ra ở 100 nước.
4. Sốt Ebola
Có giả thuyết cho rằng con người bị nhiễm loại virút này từ vượn dạng người. Tác nhân gây bệnh được truyền qua việc tiếp xúc trực tiếp với máu và bài tiết của người bệnh. Trong những năm 1970, Bệnh Ebola nổ ra ở Xuđăng cướp đi sinh mạng của 90% số người bị nhiễm.
5. Bệnh sốt vàng
Con người lây virút gây bệnh này từ vượn dạng người ở Trung Phi. Muỗi là vật truyền bệnh. Những ca bệnh sốt vàng đầu tiên đã có gần 400 năm trước. Loại vắcxin chống bệnh sốt vàng đã điều chế từ 60 năm nay.
6. Bệnh sốt tây sông Nil
Con người bị nhiễm virút gây bệnh này từ chim và thông qua muỗi. Bệnh sốt này nguy hiểm từ chỗ tỷ lệ tử vong cao. Những trường hợp mắc bệnh đã được ghi nhận không chỉ ở riêng châu Phi mà cả ở châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ.
7. Bệnh sốt rét
Tác nhân gây bệnh sốt rét truyền cho con người khi bị muỗi anôphen đốt. Mỗi năm có gần 300 triệu người mắc bệnh, một triệu người trong số đó bị chết.
8. Bệnh Laima
Con người nhiễm vi khuẩn gây bệnh qua hươu và chuột. Các triệu chứng của bệnh giống như cúm, nhưng bệnh diễn ra ở thể trầm trọng hơn và gây viêm khớp. Trong những năm 1970, lần đầu tiên bệnh xảy ra ở thành phố cùng tên ở Mỹ vì thế nó được mang đó.
9. Bệnh đậu mùa
Con người lây bệnh từ lạc đà. Căn bệnh này nổi tiếng từ 3.000 năm trước và trong một thời gian dài là nguyên nhân chính làm trẻ tử vong. Nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng cũng là nạn nhân của bệnh đậu mùa, chẳng hạn như Pie Đại đế của Nga và vua Pháp Ludowic 15. Theo đánh giá của các nhà lịch sử học, vào cuối thể kỷ XIX mỗi năm có gần 50 triệu người bị mắc bệnh đậu mùa. Tỷ lệ tử vong do bệnh đậu mùa vượt quá 30% tổng số người mắc. Trường hợp cuối cùng mắc bệnh đậu mùa diễn ra vào năm 1977.
10. Bệnh đậu mùa khỉ
Con người bị lây bệnh này từ chuột vàng. Những trường hợp mắc bệnh được ghi nhận vào cuối tháng 5 năm ngoái ở Mỹ. Căn bệnh này cũng tiến triển như bệnh đậu mùa thông thường nhưng nhẹ hơn và chưa gây tử vong.
11. Bệnh dịch hạch
Con người bị lây bệnh này từ chuột cống và những loài gặm nhấm khác. Tác nhân gây bệnh được truyền qua vết cắn. Bệnh dịch đầu tiên được nổ ra ở thế kỷ thứ 6 và ở Vizantia: Trong 50 năm gần 100 triệu người bị chết. Vào thế kỷ XIV, bệnh dịch hạch phương Đông đã cướp đi sinh mạng của chừng 1/3 dân số châu Á và châu Âu. Vào cuối thế kỷ XIX đã xảy ra đợt dịch hạch toàn cầu thứ 3 đánh vào trên 100 cảng trên thế giới. Năm 1999 nó lại bùng phát ở 14 nước, chủ yếu ở châu Phi, trên 2,6 nghìn người mắc bệnh, 212 người trong số đó tử vong.
12. Bệnh bò điên
Con người lây bệnh này từ bò. Trên thế giới lẻ tẻ có vài trường hợp chết người vì ăn phải loại thịt bò có chứa tác nhân gây bệnh đánh vào não. Những trường hợp bị bệnh bò điên xảy ra ở những nước khác nhau. Căn bệnh này gây hại cho nông nghiệp châu Âu chừng 60-120 tỷ đô la.
13. Bệnh viêm não
Con người nhận được tác nhân gây bệnh viêm não từ loài gặm nhấm và chim. Muỗi và bọ cũng là vật trung gian mang virút. Mỗi năm có 100-200 nghìn người mắc các bệnh viêm não khác nhau, 10-15 nghìn người đã chết.
14. Bệnh khuẩn salmonella
Con người bị lây bệnh này từ bò, lơn, dê, vịt và ngỗng khi trứng và thức ăn có khuẩn salmonella sống. Cũng có những trường hợp tử vong vì bệnh khuẩn này.
Một số nội dung mà hội thảo năm 2008 tại Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh vạch ra được một số nét chính và cùng nhau thảo luận cũng như đã thực hiện một số bước để phòng chống trong vòng 4 năm qua và có những thành quả nhất định trong việc khống chế các bệnh dịch bùng phát giảm đi tối đa tỷ lệ mắc bệnh và con số tử vong có ý nghĩa:
· Đề cập đến 5 mục tiêu của Chiến lược phòng chống bệnh dịch đang nổi tại châu Á Thái Bình Dương (APSED_ Asia Pacific Strategy for Emerging Diseases) là: Giảm nguy cơ các bệnh truyền nhiễm đang nổi, Tăng cường phát hiện sớm các vụ dịch, Tăng cường đáp ứng kịp thời, Chuẩn bị sẵn sàng ứng cứu, Phát triển hợp tác kỹ thuật lâu dài trong vùng châu Á-Thái Bình Dương;
· Sự cần thiết của hợp tác liên ngành trong khống chế các bệnh lây truyền từ động vật, các chuyên gia đưa ra rằng:
· Bệnh lây truyền động vật đã tác động xấu đến cuộc sống của chúng ta (về kinh tế, dân số, sinh kế);
· Ngành y tế một mình không thể giải quyết các vấn đề do bệnh lây truyền từ động vật; ngành y tế và thú y cần cùng nhau làm việc và cùng nhau tham gia vào các vấn đề động vật hoang dã, môi trường;
· Thuận lợi là cùng nhau hợp lực hành động, tận dụng tối đa nguồn lực, tăng hiệu suất và tránh các công việc chồng chéo nhau;
· Các chuyên gia cũng đưa ra thực tế hiện nay là rất ít quốc gia nào có quy chế, chức năng và ổn định giữa 2 ngành y tế và thú y;
· Đưa qua hướng dẫn chung với mục tiêu là thiết lập một quy chế phối hợp chức năng và ổn định giữa 2 ngành thú y và y tế tại các tuyến về kiểm soát các bệnh lây truyền từ động vật sang người. Hướng dẫn này có 4 phần:
· Phần I: Qui trình lập quy chế phối hợp liên ngành: đây là quy chế để điều phối các hoạt động hợp tác trong 3 lĩnh vực;
· Phần II: giám sát và chia sẻ thông tin, trong đó mỗi ngành cần trình bày năng lực và hệ thống giám sát hiện có, phân công cán bộ chịu trách nhiệm, xác định các sự kiện, vụ việc nào cần chia sẻ thông tin, xác định các vấn đề nhạy cảm có thể phát sinh và cuối cùng là xây dựng quy trình bằng văn bản (thách thức chủ yếu là chia sẻ thông tin và quản lý các thông tin mật);
· Phần III: phối hợp đáp ứng, nghĩa là cần đề ra tiêu chí đáng báo động để liên ngành phối hợp triển khai, đáp ứng một cách thích đáng, thống nhất công cụ để đánh giá nguy cơ, lập quy chế liên ứng về phối hợp đáp ứng;
· Phần IV: Giảm nguy cơ, hoạt động phối hợp nhằm làm giảm nguy cơ lây truyền chung cho động vật và người. Biện pháp gồm gia tăng nhận thức, tập huấn, cung cấp và hướng dẫn sử dụng trang bị phòng hộ cá nhân, tôn trọng luật lẫn nhau,…
· Từ đó đề xuất các hành động: phân công người chủ trì của hai ngành để cùng nhau làm việc, thảo luận ban đầu giữa những người đầu mối, tích cực ủng hộ và đề ra mục tiêu của sự phối hợp, có sự đồng thuận giữa hai ngành, trình bày thực trạng hệ thống/ tổ chức hiện có của 2 ngành; xác định và thống nhất phạm vi phối hợp, xác định phương thức của quy chế phối hợp tại các quốc gia, thảo luận và thống nhất về chức năng và cơ cấu tổ chức của Ủy ban phối hợp cấp quốc gia, xác định các thành phần (thư ký, hoạt động,…) xây dựng chính sách và các hỗ trợ về pháp luật;
· Các chọn lựa phối hợp, đối với các nước đã có ủy ban quốc gia về một bệnh lây truyền từ động vật, thì nên:
· Tìm hiểu khả năng mở rộng phạm vi của hệ thống hiện có để kiểm soát các bệnh lưu hành khác và các bệnh lây truyền từ động vật đang nổi;
· Xây dựng quy trình cho các quy chế phối hợp;
· Chính thức hóa quy chế phối hợp;
· Cuối cùng kiểm tra và diễn tập quy chế phối hợp.
· Nếu các nước chưa có Ủy ban quốc gia nên lập mới một Ủy ban quốc gia với các phạm vi công việc:
· Bảo đảm việc hướng dẫn và gắn kết 2 ngành trong định hướng của kế hoạch quốc gia về phòng chống các bệnh lây truyền từ động vật;
· Đề ra chiến lược tập trung và triển khai kế hoạch hành động đã thống nhất;
· Bảo đảm sự hợp tác giữa 2 ngành thông qua phối hợp hành động và trao đổi tư vấn cũng như hỗ trợ ở mọi thời điểm;
· Đề ra chính sách vĩ mô và tư vấn chiến lược cho từng Bộ Y tế và nông nghiệp của các quốc gia.
· Những bài học kinh nghiệm:
· Cả hai ngành cần tiếp tục nâng cao năng lực của hệ thống hiện hữu của ngành mình và sử dụng khung chung về bệnh lây truyền từ động vật, qua đó tăng cường hợp tác giữa thú y và y tế thông qua quy chế phối hợp;
· Tận dụng nguồn lực sẵn có;
· Mỗi ngành cần phải tôn trọng người được ủy quyền, và vai trò trách nhiệm của từng ngành;
· Quy chế phối hợp về cúm gia cầm và bệnh dại là nền tảng và có thể nhân rộng ra cho các bệnh khác;
· Cần có chính sách và hướng dẫn cụ thể để hỗ trợ quy chế và không quên xác định nguồn tài chính.
· Những thách thức chính:
· Tiến trình xây dựng quy chế phối hợp giữa ngành thú y và y tế sẽ tốn nhiều thời gian vì cần có sự hợp tác giữa 2 ngành;
· Các nước có cúm gia cầm cần hợp tác thêm về các bệnh khác cũng lây từ động vật.