Trong 6 tháng đầu năm 2009, trước tình hình sốt rét có xu hướng biến động ở nhiều vùng, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn và các tỉnh trong khu vực đã chủ động tăng cường các biện pháp chỉ đạo phòng chống sốt rét nhằm khống chế sự gia tăng số mắc, hạn chế số tử vong và ngăn chặn dịch sốt rét xảy ra; Hội nghị giao ban đánh giá kết quả phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, đồng thời định hướng trọng tâm hoạt động trong 6 tháng cuối năm 2009.
Hội nghị giao ban đánh giá kết quả phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùngkhu vực miền Trung-Tây Nguyên 6 tháng đầu năm 2009 được tổ chức vào ngày 27/7/2009 tại Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn; đến dự Hội nghị có TS. Nguyễn Văn Bình-Phó Cục trưởng-Cục Y tế dự phòng và Môi trường-Bộ Y tế, TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Trung ương, TS. Lê Thành Đồng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng TP. Hồ Chí Minh, TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Quy Nhơn và trên 100 đại biểu là Lãnh đạo và chuyên viên của các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng; Lãnh đạo và cán bộ kế hoạch tổng hợp, cán bộ phụ trách Khoa/Phòng chuyên môn của các Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Ytế dự phòng 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên, đại diện Lãnh đạo các đơn vị Quân y, các công ty cao su đóng trên địa bàn khu vực miền Trung-Tây Nguyên, các huyện có tình hình sốt rét gia tăng, đài báo truyền hình địa phương đến đưa tin Hội nghị, đặc biệt là có đại diện Công ty Dược phẩm-Trang thiết bị y tế tỉnh Bình Định (Bidiphar) là đơn vị tài trợ chính cho Hội nghị.
|
Toàn cảnh Hội nghị |
Hội nghị đã nghe các báo cáo đánh giá kết quả phòng chống sốt rét & các bệnh ký sinh trùng 6 tháng đầu năm 2009 khu vực miền Trung-Tây Nguyên do TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Quy Nhơn trình bày, đánh giá kết quả phòng chống sốt rét 6 tháng đầu năm 2009 khu vực Nam bộ-Lâm Đồng do TS. Lê Thành Đồng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng TP. Hồ Chí Minh trình bày, kết quả phòng chống sốt rét toàn quốc do TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Trung ương trình bày, hướng dẫn xây dựng kế hoạch phòng chống sốt rét năm 2010 do Ths. Vũ Huy Nam-Trưởng Phòng Kế hoạch tổng hợp của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Trung ương trình bày cùng nhiều ý kiến thảo luận của các tỉnh có tình hình sốt rét gia tăng và có nhiều khó khăn trong kiểm soát sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Thông qua ý kiến thảo luận của Hội nghị Lãnh đạo các Viện cũng đồng thời là Ban chủ nhiệm Dự án Quốc gia Phòng chống sốt rét đã giải đáp nhằm tìm ra các giải pháp tháo gỡ cho các địa phương, đặc biệt là TS. Nguyễn Văn Bình-Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng & Môi trường Bộ Y tế đã phát biểu chỉ đạo và có kế hoạch phối hợp với Viện kiểm tra giám sát các tỉnh có biến động sốt rét trong 6 tháng cuối năm 2009.
|  |
TS.Hồ Văn Hoàng tuyên bố lý do Hội Nghị | TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Quy Nhơn phát biểu khai mạc |
Tình hình sốt rét 6 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008
Bệnh nhân sốt rét (BNSR):
Toàn khu vực tăng 6,37% (7.895/7.422) so với cùng kỳ năm 2008, trong đó miền Trung tăng 4,95%, Tây Nguyên tăng 8,40%.
7/15 tỉnh có số BNSR tăng là Quảng Trị (+73,67%), Bình Thuận (+64,22%), Gia Lai (+32,64%), Phú Yên (+15%), Quảng Nam (+14,99%), Ninh Thuận (+11,25), Đăk Lăc (+4,10%);
8/15 tỉnh có số BNSR giảm là Quảng Ngãi (-43,72%), Thừa Thiên-Huế (-26,29%), Quảng Bình (-22,71%), Bình Định (-20,74%), TP. Đà Nẵng (-6,25%), Khánh Hòa (-3,61%), Đăk Nông (-2,28%), Kon Tum (-0,94%).
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR):
Toàn khu vực tăng 49,34% (0,67/0,45) so với cùng kỳ 2008, trong đó miền Trung tăng 53,75%, Tây Nguyên tăng 42,90%.
11/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR tăng là Gia Lai (+106,55%), Khánh Hòa (+100,06%), Bình Thuận (81,26%), Quảng Nam (+73,22%), Đak Lak (+57,57%), Ninh Thuận (+47,13%), Quảng Trị (+46,09%), Bình Định (+31,89%), Kon Tum (+18,73%), Quảng Ngãi (+15,11%), Phú Yên (+2,67%).
4/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR giảm là Quảng Bình (-22,71%), TP.Đà Nẵng (-20,79%), Thừa Thiên-Huế (-17,59%), Đak Nông (-7,54%).
Sốt rét ác tính SRAT):
Toàn khu vực có 37 trường hợp SRAT, tăng 10 trường hợp so với cùng kỳ 2008 (37/27), trong đómiền Trung tăng 3 ca (21/18), Tây Nguyên tăng 7 ca (16/9).
Tỉnh có số SRAT tăng cao gồm Ninh Thuận (15/8), Gia Lai (5/1), Kon Tum (4/1) và Đak Lak (6/4).
Tử vong sốt rét (TVSR):
Toàn khu vực có 3 ca TVSR ở các tỉnh Gia Lai (1), Đăk Nông (1) và Ninh Thuận (1); tăng 2 ca so với cùng kỳ năm 2008 (3/1).
Cả 3 trường hợp TVSRđều nhập viện quá muộn từ 2-7 ngày sau khởi bệnh dẫn đến biến chứng nặng và tử vong trước 24 giờ quá khả năng cấp cứu của các tuyến điều trị
Dịch sốt rét: không xảy ra.
Như vậy trong 6 tháng đầu 2009 so với cùng kỳ năm trước, số mắc toàn khu vực tăng 6,37%, số chết tăng 2 ca so với mục tiêu đề ra; đáng lưu ý là các tỉnh có số BNSR, KSTSR đều gia tăng hoặc có TVSR là Quảng Trị, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Quảng Nam, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận tập trung ở các nhóm dân di biến động ngoài tầm kiểm soát của ngành y tế thuộc các vùng nguy cơ sốt rét cao nên khả năng sốt rét bùng phát trở lại và xảy dịch trong các tháng cuối năm 2009 là rất lớn; trong đó tỉnh Quảng Trị trong tháng 5-6/2009 sốt rét có khả năng bùng phát thành dịch ở huyện Hướng Hóa do giao lưu biên giới Việt-Lào, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã nhanh chóng phối hợp với ngành y tế tỉnh Quảng Trị tiến hành giám sát dịch tễ để xác minh dịch sốt rét và kịp thời chỉ đạo các biện pháp can thiệp.
|
TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Trung ương trình bày kết quả phòng chống sốt rét toàn quốc |
Nguyên nhân gia tăng bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét:
Nguyên nhân chủ quan:
Người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng, nhất là tỷ lệ ngủ màn thấp tạo điều kiện thuận lợi cho sự lan truyền bệnh tự nhiên trên diện rộng vào thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh.
Khả năng cắt đứt lan truyền sốt rét còn hạn chế tại khu vực biên giới Việt-Lào, đặc biệt là ở các đối tượng trẻ em < 15 tuổi, dân địa phương sang Lào làm rẫy/ngủ rẫy dài ngày kể cả người Lào sang địa phương; phía cộng đồng Lào không được bảo vệ phòng chống sốt rét, hợp tác của phía Lào không tích cực, khó kiểm soát bệnh sốt rét do giao lưu biên giới qua các đường tiểu ngạch.
Biện pháp cấp thuốc tự điều trị (Stand-by treatment) chưa hiệu quả, trong khi vectơ truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus) có xu hướng phục hồi và mầm bệnh (KSTSR) vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân.
Y tế cơ sở chưa phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh nhân, khả năng cấp cứu sốt rét ác tính của bệnh viện tuyến huyện còn hạn chế cùng với bệnh nhân không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị nên dẫn đến các biến chứng muộn, tử vong sốt rét tăng cao.
Nguyên nhân khách quan:
Các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới của khu vực miền Trung-Tây Nguyên đều thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng có đặc điểm dịch tễ học sốt rét phức tạp thuận lợi cho sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét.
Chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho các nhóm dân di biến động (dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới), chưa có sự hợp tác với nước bạn trong kiểm soát sốt rét biên giới.
Mặc dù công tác điều trị đúng theo phác đồ nhưng có thể những năm gần đây do thiếu thuốc Primaquine có thể ảnh hưởng đến việc cắt đường lây lan ở các trường hợp sốt rét do P.falciparum cũng như chống tái phát xa sốt rét do P.vivax.
Thời tiết biến động bất thường tạo môi trường thuận lợi cho muỗi truyền bệnh phát triển, ngoài ra cần đề cập đến quy luật phát sinh dịch theo chu kỳ 3-5 năm sau quá trình sốt rét giảm thấp.
Đánh giá kết quả các hoạt động phòng chống sốt rét 6 tháng/2009
Tổ chức chỉ đạo:
Dự báo tình hình sốt rét gia tăng tại các vùng trọng điểm, ngay từ đầu năm 2009 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã đã gửi nhiều Công điện khẩn đến các Sở Y tế, Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng và các bệnh viện tuyến tỉnh cảnh báo nguy cơ sốt rét, chỉ đạo tăng cường các biện pháp phòng chống sốt rét tại các địa phương; đồng thời Lãnh đạo Viện cùng các khoa/phòng liên quan đã trực tiếp chỉ đạo phòng chống sốt rét tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Đặc biệt là Viện đã phối hợp với tỉnh Quảng Trị điều tra xác định nguyên nhân sốt rét gia tăng ở xã Xy thuộc huyện biên giới Hướng Hóa và áp dụng các biện pháp can thiệp nhằm ngăn chặn dịch.
Thực hiện sự chỉ đạo của Viện, các tỉnh trong khu vực đã kịp thời thông báo cho các huyện tăng cường biện pháp phòng chống sốt rét, bổ sung các biện pháp can thiệp ở vùng có nguy cơ gia tăng sốt rét như vùng dân di biến động, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa; cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp ở địa phương vẫn duy trì sự quan tâm chỉ đạo PCSR đúng mức, nhất là ở các vùng sốt rét trọng điểm.
Màng lưới chuyên khoa sốt rét các tuyến đã chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp chuyên môn kỹ thuật trong các chiến dịch PCSR và tích cực khống chế các vùng sốt rét có biến động (các khu vực có dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy và giao lưu biên giới); màng lưới y tế cơ sở (y tế huyện, xã, thôn, bản, điểm kính hiển vi) đã tham gia tích cực các hoạt động kiểm soát sốt rét, tuy nhiên công tác phát hiện điều trị sớm và quản lý bệnh nhân sốt rét tại cơ sở còn nhiều khó khăn, nhất là vùng biên giới Việt Lào thuộc tỉnh Quảng Trị do chưa có sự hợp tác biên giới trong kiểm soát sốt rét.
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch:
Viện đã phối hợp với các tỉnh trong khu vực tổ chức nhiều đoàn giám sát dịch tễ sốt rét tại các vùng sốt rét trọng điểm và các vùng có nguy cơ sốt rét cao để đánh giá tình hình sốt rét, đề xuất giải pháp và khống chế nguy cơ sốt rét gia tăng.
Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp PCSR và bổ sung các biện pháp phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn và điều trị bệnh nhân ở những vùng có nguy cơ xảy dịch cao; công tác giám sát dịch tễ vùng trọng điểm và chế độ giao ban hàng tháng từ dưới lên giữa xã, huyện, tỉnh được duy trì thường xuyên, nhờ đó thông tin được phân tích, kịp thời khống chế gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch. Nhiều tỉnh trong khu vực cũng đã chỉ đạo các tuyến xây dựng hệ thống dự báo dịch sớm, bước đầu phát huy vai trò trong công tác giám sát dịch tễ.
Các địa phương gửi báo cáo sốt rét về Viện đúng thời gian quy định do đó Viện đã báo cáo kịp thời cho Bộ Y tế và phản hồi cho các địa phương; tuy nhiên do có sự thay đổi biểu mẫu thống kê báo cáo nên Viện đang hiệu chỉnh phần mềm quản lý sốt rét (MMS), dự kiến trong tháng 8 sẽ hoàn thành và tổ chức hướng dẫn cho cán bộ dịch tễ và thống kê của các tỉnh trong khu vực triển khai thực hiện.
Phòng chống vectơ:
Viện đã cung cấp hoá chất phun tẩm cả năm, đảm bảo cho các tỉnh triển khai đúng kế hoạch phun tồn lưu bảo vệ cho 136.720 người; tẩm 265.764 màn bảo vệ cho 549.761 người trước khi mùa bệnh phát triển trong 6 tháng đầu năm 2009; ngoài ra còn cấp bổ sung hóa chất cho các tỉnh Gia Lai, Đăk Nông, Kon Tum và Khánh Hòa kịp thời tăng cường biện pháp phòng chống véc tơ bổ sung cho các vùng có sốt rét gia tăng và vùng trọng điểm.
Công tác phòng chống vectơ 6 tháng đầu năm 2009
STT | Khu vực | TS dân được bảo vệ | Lượt dân số bảo vệ | Số màn được tẩm |
Phun tồn lưu (Fendona) | Tẩm màn |
1 | Miền Trung | 337.426 | 83.741 | 253.685 | 129.870 |
2 | Tây Nguyên | 349.055 | 52.979 | 296.076 | 135.894 |
3 | Toàn miền | 686.481 | 136.720 | 549.761 | 265.764 |
Chẩn đoán, điều trị và quản lý thuốc sốt rét:
Viện đã cấp đủ thuốc sốt rét theo kế hoạch năm 2009, đáp ứng yêu cầu điều trị bệnh nhân sốt rét của các cơ sở y tế trong khu vực, đặc biệt là thuốc sốt rét được cấp đến y tế thôn bản giúp cho công tác điều trị sớm bệnh nhân cũng như cấp tự điều trị cho các đối tượng làm ăn xa cơ sở y tế trong các vùng sốt rét lưu hành theo chỉ định.
Các tỉnh đã chỉ đạo tăng cường phát hiện sớm, điều trị kịp thời, phát huy hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi nhằm hạn chế sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét; tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm có 3 tỉnh không gửi lam kiểm tra kỹ thuật là Ninh Thuận, Kon Tum và Đăk Lắc; 12/15 còn lại gửi lam có tỷ lệ sai sót chung là 0,08%, trong đó miền Trung sai sót 0,06%, Tây Nguyên sai sót 0,15%.
Kết quả thực hiện công tác điều trị 6 tháng đầu năm 2009
STT | Khu vực | Tổng số liều thuốc cấp theo kế hoạch năm 2009 | Tổng số liều thuốc điều trị trong 6 tháng đầu 2009 |
1 | Miền Trung | 174.500 | 35.411 |
2 | Tây Nguyên | 76.000 | 14.215 |
3 | Toàn miền | 250.500 | 49.626 |
Truyền thông giáo dục và xã hội hoá PCSR
Công tác TTGD và XHH PCSR đạt hiệu quả là một trong những yếu tố bền vững củng cố thành quản PCSR, vì vậy công tác này được quan tâm và triển khai rộng ở các địa phương dưới nhiều hình thức.
- Nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm: 26.813 lần; 6.332.363 lượt người nghe
- Truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình : 2.743 lần cho 3.993 lượt người nghe
- Chiếu Video và biểu diễn văn nghệ: 349 buổi cho 1.704.041 lượt người xem.
- Phát tranh, tờ rơi:24.270 tranh, tờ rơi. Xây dựng: 02 pano truyền thông PCSR. Viết 20 bài cho các báo, đài.
- Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn tiến hành tổ chức Hội thi nâng cao kiến thức phòng chống sốt rét tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Tổ chức kỷ niệm ngày sốt rét thế giới 25 tháng 4 tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đak Lak.
- 15 tỉnh trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên chọn mỗi tỉnh một huyện trọng điểm để tổ chức ra quân thực hiện chiến dịch phòng chống sốt rét nhân ngày sốt rét thế giới 25-4.
Đào tạo và đào tạo lại:
Viện tiếp tục đào tạo 3 lớp Trung học xét nghiệm cạnh Viện, chuẩn bị tổ chức thi tốt nghiệp cho Khóa 30; hối hợp với Khoa Y Dược-Trường Đại học Tây Nguyên giảng dạy chuyên ngành ký sinh trùng và hướng dẫn các học viên cao học chuyên ngành ký sinh trùng và côn trùng.
Các tỉnh trong khu vực đã tiến hành đào tạo 524 lớp cho 11.638học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, xét nghiệm viên các tuyến nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại địa phương.
Nghiên cứu khoa học:
Viện đã phối hợp với các tỉnh triển khai các đề tài NCKH cấp Bộ, đề tài cấp cơ sở và đề tài hợp tác quốc tế về các lĩnh vực dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, ký sinh trùng đường ruột, lâm sàng và điều trị sốt rét.
Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản về di truyền sinh học, sinh học phân tử, miễn dịch học, nuôi cấy liên tục KSTSR, siêu âm, điện tim...
Định hướng phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2009
Mục tiêu phòng chống sốt rét năm 2009:
Mục tiêu chung:
Tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét ở các vùng trọng điểm, các vùng sốt rét có nguy cơxảy dịch vàphát triển các yếu tố bền vững nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại.
Mục tiêu cụ thể:
- Giảm mắc sốt rét 5% so với 2008, năm 2009 còn 1,17 0/00 DSC.
- Giảm chết sốt rét 5% so với 2008, năm 2009 còn 0,08 0/0000 DSC.
- Ngăn chặn không để dịch sốt rét xảy ra, nếu có phải dập tắt kịp thời.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các yếu tố bền vững và xã hội hoá phòng chống sốt rét nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại, duy trì thành quả phòng chống sốt rét lâu dài.
Các chỉ tiêu năm 2009:
- Dân số được bảo vệ bằng hoá chất diệt muỗi :3.744.000người.
Trong đó:
+ Bảo vệ bằng phun hoá chất tồn lưu:617.000người
+ Bảo vệ bằng màn tẩm hoá chất:3.127.000người
- Số lượt người được điều trị sốt rét:286.500lượt
- Số lam máu phát hiện:805.000lam
Các giải pháp thực hiện chính:
Giải pháp về tổ chức chỉ đạo thực hiện:
Trong giai đoạn sốt rét giảm thấp dễ nảy sinh tư tưởng chủ quan nên công tác phòng chống sốt rét cần được sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền các cấp, sự tham gia tích cực của các đoàn thể và sự hưởng ứng của cộng đồng.
Giải pháp về chuyên môn kỹ thuật :
Tăng cường chỉ đạo, giám sát, kiểm tra tình hình sốt rét ở các vùng trọng điểm nhằm phát hiện và xử lí kịp thời khi sốt rét biến động và gia tăng; nâng cao chất lượng kỹ thuật phun, tẩm phòng chống vector ; nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét ở tất cả các tuyến ; đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục-xã hội hoá phòng chống sốt rét.
Tập trung chỉ đạo các biện pháp PCSR có hiệu quả cho đối tượng có nguy cơ sốt rét cao, dân di cư tự do, người đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới ; các công trình trọng điểm của Nhà nước như giao thông, thuỷ điện, thuỷ lợi...
Trọng tâm công tác phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2009:
Hiện nay sốt rét đang gia tăng ở nhiều vùng, dự báo có thể tiếp tục tăng cao vào các tháng cuối năm (mùa mưa bão và mùa truyền bệnh) và có khả năng bùng phát thành dịch ; mục tiêu trước mắc là hạn chế lây lan trong cộng đồng, không để xảy ra tử vong và ngăn chặn sự phát triển dịch sốt rét nên trọng tâm công tác phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2009 như sau :
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch:
Tiếp tục chỉ đạo triển khai kế hoạch PCSR phù hợp cho từng địa phương, tăng cường kiểm tra, giám sát dịch tễ sốt rét các vùng trọng điểm , các vùng di biến động dân để phát hiện và xử lý kịp thời, ngăn chặn sự gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch.
Cấp thuốc tự điều trị cho người dân khi đi xa cơ sở y tế dài ngày bằng Arterakin, nhất là các đối tượng di dân tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới và điều trị có kiểm soát tại cộng đồng; hỗ trợ phòng chống sốt rét tại các điểm nóng, các vùng có thiên tai lũ lụt về nhân lực (các đoàn công tác) và vật lực (hóa chất phun tẩm, thuốc sốt rét, kinh phí phòng chống dịch).
Chuẩn bị sẵn sàng cơ số thuốc sốt rét, hóa chất diệt, vật tư cần thiết và kinh phí phòng chống dịch để cấp bổ sung cho các tỉnh có dịch sốt rét xảy ra hoặc thiên tai lũ lụt.
Hướng dẫn các tuyến tỉnh/huyện nâng cao chất lượng thống kê, báo cáo, phân tích số liệu và dự báo dịch sốt rét kịp thời thông qua các biểu mẫu mới và phần mềm quản lý sốt rét (MMS).
Có văn bản trình Bộ Y tế về Đề án kiểm soát bệnh tại khu vực biên giới và đề nghị nguồn kinh phí hỗ trợ thực hiện.
Giám sát véctơ và phòng chống vectơ:
Triển khai phun, tẩm hoá chất trên cơ sở phân vùng dịch tễ sốt rét can thiệp và đảm bảo độ bao phủ theo kế hoạch được giao; chỉ định phun tẩm hóa chất bổ sung cho những vùng trọng điểm có khả năng xảy dịch, tỷ lệ đạt thấp.
Nâng cao chất lượng kỹ thuật phun tồn lưu hoá chất và tẩm màn diệt muỗi ; Viện phối hợp với các tỉnh tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng phun, tẩm trong các đợt triển khai chiến dịch.
Tuyên truyền vận động nhân dân nằm màn, đi rừng ngủ rẫy phải mang theo màn nằm để bảo vệ cá nhân; vận động người dân ngủ màn khi ở nhà cũng như khi đi sang biên giới hoặc vào nương rẫy.
Tăng cường giám sát véctơ sốt rét và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng chống véctơ ở các vùng trọng điểm, vùng có di biến động dân và các vùng có nguy cơ xảy dịch.
Quản lý, sử dụng và bảo quản tốt bình phun, hoá chất diệt muỗi, tránh thất thoát, hư hỏng.
Chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét:
Tuyến y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) chú trọng phát hiện và điều trị sốt rét kịp thời cho các đối tượng di biến động dân, người đi vào vùng sốt rét lưu hành khi trở về mắc sốt rét; tuyến Viện và tỉnh cử đoàn điều trị xuống các điểm nóng hỗ trợ chẩn đoán và điều trị sốt rét tại cơ sở để giảm tử vong do sốt rét.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi giúp phát hiện sớm và điều trị kịp thời các ca bệnh sốt rét tại cơ sở, tăng cường kết hợp quân dân y trong phòng chống sốt rét ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát chất lượng chẩn đoán, điều trị sốt rét và tổ chức tập huấn cho các tuyến bệnh viện tỉnh/huyện thuộc các vùng sốt rét trọng điểm, có tử vong sốt rét cao và năng lực chẩn đoán, điều trị sốt rét còn hạn chế.
Đảm bảo cung cấp đủ thuốc sốt rét có hiệu lực cao (thuốc phối hợp Dihydroartemisinine + Piperakin, thuốc Artesunate tiêm) theo kế hoạch đã duyệt hoặc cấp bổ sung theo yêu cầu địa phương; cung cấp thuốc Primaquine để diệt giao bào chống lây lan và cấp thuốc sốt rét miễn phí đến tận thôn, bản, quản lý chặt chẽ bệnh nhân sốt rét, chủ động phát hiện bệnh tại cộng đồng đặc biệt khu vực biên giới.
Truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét:
Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục-xã hội hoá phòng chống sốt rét bằng các phương tiện và hình thức phù hợp với từng địa phương
Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của màng lưới truyền thông viên, cung cấp các tài liệu, tranh, ảnh, băng cassette, video về PCSR. Phối hợp tổ chức Hội thi kiến thức PCSR và truyền hình trực tuyến hỏi đáp về PCSR ở các vùng trọng điểm sốt rét, vùng sâu, vùng xa.
Kết hợp có hiệu quả với các ban ngành, đoàn thể: Quân y, Hội chữ thập đỏ, Thông tin văn hoá, Giáo dục để phát động các chiến dịch truyền thông giáo dục về PCSR.
Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại về phòng chống sốt rét:
Đào tạo 2 lớp kỹ thuật viên trung cấp dài hạn và1 lớp KTVTC vừa học vừa làmcho cáctỉnh trong khu vực; phối hợp vớiTrường Đại học Tây Nguyên đào tạo cao học chuyên ngành Ký sinh trùng tại Viện.
Tổ chức 1 lớp tập huấn nâng cao kỹ thuật cho cán bộ côn trùng tuyến tỉnh theo nguồn kinh phí Dự án Quốc gia PCSR và 2 lớp đào tạo ngắn hạn về quản lý sốt rét tuyến huyện theo nguồn kinh phí của Dự án Quỹ toàn cầu PCSR, ngoài ra còn phối hợp với các tỉnh trong khu vực đào tạo tại chỗ kỹ thuật xét nghiệm KSTSR cho các tuyến theo nguồn ngân sách chuuwong trình cấp cho địa phương.
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế:
Tiếp tục triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đềkhó khăn tồn tại trong PCSR hiện nay; Hợp tác với Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Viện nghiên cứu sốt rét quân đội Australia, Viện vệ sinh phòng dịch quân đội nghiên cứuKSTSR kháng thuốc và đánh giá hiệu lực thuốc điều trị sốt rét.
Ưng dụng có hiệu quả Trang tin điện tử (Website ) của Viện để phát triển hệ thống thông tin về chuyên ngành và phát triển các hoạt động công nghệ thông tin theo chỉ đạo của Bộ Y tế như mạng thông tin nội bộ (LAN), giao ban trực tuyến (Tele-conference), hộp thư điện tử (Email) và các phần mềm quản lý.
Quản lý thuốc sốt rét, hoá chất, vật tư,kinh phí PCSR:
Tổ chức kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng và báo cáo thuốc sốt rét, hoá chất, vật tư và kinh phí theo quy định của Dự án Quốc gia PCSR; không để thuốc sốt rét, hoá chất quá hạn, kém phẩm chất hoặc thất thoát; quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vật tư, kinh phí của Dự án Quỹ toàn cầu cung cấp.
Hướng dẫn các tỉnh xây dựng kế hoạch PCSR năm2010 phù hợp với nhu cầu thực tế gửi về Viện và Dự án quốc gia PCSR trước ngày 15/8/2009 để kịp duyệt và trình Bộ Y tế trước tháng 9/2009.
Đánh giá kết quả Phòng chống bệnh sán lá gan lớn & các bệnh ký sinh trùng 6 tháng đầu năm 2009
Với điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, đồng bào địa phương nhiều tập quán lạc hậu, ý thức vệ sinh phòng bệnh hạn chế, lại thường xuyên đối mặt với bão lụt kéo dài nên miền Trung-Tây Nguyên không chỉ là trọng điểm sốt rét mà còn là trọng điểm của các bệnh ký sinh trùng.
Đặc biệt là những năm gần đây (2006-2009) bệnh sán lá gan lớn phát triển mạnh ở nhiều tỉnh miền Trung-Tây Nguyên và trở thành điểm nóng của cả nước nên việc đánh giá kết quả phòng chống bệnh sán lá gan lớn & các bệnh ký sinh trùng trong 6 tháng đầu năm và định hướng hoạt động 6 tháng cuối năm 2009 là hết sức cần thiết.
Tình hình bệnh sán lá gan lớn gia tăng trong 6 tháng đầu năm 2009
Theo số liệu thống kê 6 tháng đầu năm 2009 tại 10 tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên và Phòng khám Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn thấy số bệnh nhân sán lá gan lớn (SLGL) được phát hiện và điều trịlà 2.500 ca tăng 45% (2.500/1.431) so với cùng kỳ năm 2008 ; trong đó cao nhất là Phòng khám Viện Quy Nhơn 1.523 ca, Bình Định 407 ca, Quảng Ngãi 200 ca, Quảng Nam 102 ca, Gia Lai 82 ca, Phú Yên 72 ca, Thừa Thiên Huế 45 ca, Khánh Hòa 42 ca, Đà Nẵng 18 ca, Đắc Lắc 6 ca và Quảng Trị 3 ca.
Như vậy từ năm 2006 đến nay, bệnh sán lá gan lớn đã bùng phát trên diện rộng và ngày càng có xu hướng gia tăng, trong đó trên 80% số bệnh nhân SLGL tập trung ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên: năm 2006 là 92,31% (3.543/3.838), năm 2007 là 84,79% (1.862/2.196), năm 2008 là 90% (1.812/2000) so với cả nước và chỉ trong 6 tháng đầu năm 2009 số ca SLGL phát hiện ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã cao hơn so với các năm 2007, 2008 và gần bằng thời điểm bùng phát sán lá gan lớn năm 2006.
| |
Các đại biểu | tham dự Hội nghị |
Nguyên nhân gia tăng bệnh sán lá gan lớn
- Bệnh SLGL ngày càng gia tăng là do hiện nay không còn là bệnh ký sinh trùng hiếm gặp, người không còn là vật chủ tình cờ mà đã trở thành vật chủ thích nghi của sán lá gan lớn.
- Tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở động vật ăn cỏ ở các tỉnh miền Trung rất cao (40-50%), sự đào thải trứng sán lá gan lớn trước đây chủ yếu ở động vật ăn cỏ nay cộng thêm trứng sán lá gan ở người bài xuất ra đã làm cho điều kiện nhiễm bệnh ngày càng thuận lợi hơn.
- Yếu tố nguy cơ nhiễm bệnh sán lá gan lớn liên quan đến tập quán ăn rau sống dưới nước hoặc uống nước lã có ấu trùng sán và thói quen ăn uống hết sức phức tạp của người dân vì vậy việc phòng chống bệnh sán lá gan lớn cho cộng đồng gặp nhiều khó khăn.
Các giải pháp phòng chống sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên
Từ năm 2003-2005:
Ngay từ khi thấy xuất hiện tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn ở người, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã có những cuộc điều tra khảo sát tại cộng đồng xác định tỷ lệ nhiễm bệnh khoảng 6%, thực hiện đề tài cấp Bộ về nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học sán lá gan lớn ở một số điểm của hai tỉnh miền Trung, phối hợp với Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương nghiên cứu đánh giá hiệu quả của Triclabendazole (Egaten 250mg) điều trị bệnh nhân sán lá gan lớn.
Từ năm 2006-2008:
Trước diễn biến phức tạp của bệnh sán lá gan lớn, trong năm 2006 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã chủ động báo cáo Bộ Y tế, thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về kỹ thuật chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn; tham mưu cho Bộ Y tế xây dựng và ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn”; đề xuất với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam về nhu cầu cung ứng thuốc đặc hiệu và Bộ Khoa học-Công nghệ đề tài trọng điểm cấp Nhà nước nhằm giải quyết có hệ thống vấn đề sán lá gan lớn; tổ chức tập huấn và cung cấp thuốc đặc hiệu cho các tuyến y tế thuộc các tỉnh có tỷ lệ nhiễm bệnh cao ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Tuy nhiên các đề xuất của Viện chưa được đáp ứng hoàn toàn, những năm qua việc phát hiện, điều trị bệnh nhân sán lá gan lớn vẫn chỉ tập trung ở một số bệnh viện tỉnh và các Viện chuyên ngành dựa vào nguồn thuốc đặc hiệu do WHO cung cấp, công tác truyền thông giáo dục, giải quyết môi trường và các hoạt động can thiệp khác vẫn còn bỏ ngỏ do chưa có nguồn kinh phí và chưa có chương trình phòng chống cụ thể.
Đầu năm 2009 đến nay:
Trong 6 tháng đầu năm 2009 bệnh sán lá gan lớn ngày càng phát triển cùng tình trạng khan hiếm thuốc nghiêm trọng, mặc dù Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương đã chuyển giao cho Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn 6.500 viên Egaten 250mg từ nguồn thuốc của WHO để cung cấp cho các tỉnh có tỷ lệ nhiễm sán lá gan cao trong khu vực; nhưng do từ đầu năm đến nay số bệnh nhân tăng đột biến nên số thuốc được cấp không đáp ứng đủ nhu cầu điều trị, trong khi bệnh nhân vẫn tiếp tục gia tăng nên vấn đề thiếu thuốc đặc trị đã gây nhiều khó khăn cho các cơ sở y tế ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên do gia tăng áp lực điều trị.
Để chủ động về nguồn thuốc điều trị sán lá gan lớn, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng Quy Nhơn đã báo cáo Bộ Y tế cho phép được mua thuốc đặc hiệu từ nguồn nhập khẩu của các công ty dược phẩm đồng thời cho chủ trương về nguồn kinh phí mua thuốc, hình thức phân phối thuốc, bán thu hồi kinh phí hay cấp miễn phí thuốc Egaten điều trị cho bệnh nhân và các giải pháp phòng chống khác thay vì phải bị động trông chờ vào nguồn cấp của WHO như trước đây.
Trên cơ sở đề nghị của Viện, Bộ Y tế đã có văn bản hướng dẫn cho phép Viện và các cơ sở khám, chữa bệnh được phép mua thuốc điều trị bệnh sán lá gan lớnđể điều trị cho người bệnh theo phác đồ điều trị do Bộ Y tế ban hành vì bệnh sán lá gan lớn không thuộc danh mục bệnh dịch tối nguy hiểm được cấp miễn phí và việc thanh toán thuốc được thực hiện thông qua chính sách thu viện phí, bảo hiểm y tế như các loại bệnh thông thường khác.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã gửi thông báo chủ trương của Bộ đến các cơ sở y tế liên quan đồng thời xúc tiến các thủ tục đấu thầu mua thuốc trong thời gian sớm nhất để kịp thời phục vụ người bệnh.
Cùng với việc điều trị bệnh nhân, Viện đã tăng cường chỉ đạo công tác chẩn đoán & điều trị bệnh sán lá gan lớn tại các cơ sở y tế thuộc các tỉnh có tỷ lệ nhiễm bệnh cao; đồng thời đề nghị Bộ Y tế cho phép xây dựng đề án phòng chống và kinh phí thực hiện các biện pháp can thiệp khác như truyền thông giáo dục, giải quyết môi trường và các hoạt động phòng chống tại cộng đồng; xây dựng chương trình hoặc dự án cụ thể phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, nơi có lưu hành bệnh cao nhất cả nước nhằm giảm thiểu áp lực bệnh nhân và khống chế sự gia tăng của bệnh sán lá gan lớn một các bền vững; tổ chức Hội nghị liên ngành y tế-thú y và các cơ quan hữu quan để phối hợp phòng chống bệnh SLGL ở người và gia súc nhiễm bệnh.
Hoạt động phòng chống giun sán 6 tháng đầu năm 2009
Trong 6 tháng đầu năm 2009, hoạt động phòng chống bệnh giun sán của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn và các tỉnh trong khu vực tập trung vào một số nội dung chủ yếu như sau:
Tập huấn, giám sát:
-Viện đã tổ chức các lớp tập huấn tại chỗ về chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn cho bác sĩ, kỹ thuật viên các bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và khu vực Bắc Quảng Nam..
-Giám sát công tác chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn tại các bệnh viện huyện, tỉnh của hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam.
-Hỗ trợ kỹ thuật và một số trang thiết bị tối thiểu phục vụ cho labo ký sinh trùng đường ruột thuộc hai tỉnh Đăk Nông và Kon Tum.
Điều tra:
-Điều tra tình hình nhiễm giun đũa chó và đánh giá hiệu quả điều trị bằng thuốc Albendazole ở hai xã của huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định; kết quả điều tra bằng xét nghiệm máu ELISA thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa chó ở xã Canh Vinh 21,78% (44/202), Canh Hiệp 20,5% (41/200).
-Điều tra tình hình nhiễm sán dây tại hai xã của huyện Đăkglei, tỉnh Kon Tum thấy tỷ lệ nhiễm sán dây ở xã Đăk Mon là 15,61%, xã Đăk Roong là 6,27%.
-Điều tra đánh giá tình hình nhiễm sán lá gan nhỏ tại hai xã của huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông thấy tỷ lệ nhiễmsán lá gan nhỏ tại xã Đăk Môl là 2,14%, xã Đăk Hòa 0%.
-Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan lớn tại hai xã Cát Tân và Cát Hanh thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
Can thiệp:
-Tổ chức tẩy giun cho học sinh tiểu học tại hai tỉnh Phú Yên và Thừa Thiên-Huế đạt 99,08% (179.319/180.991).
TT | Địa điểm (tỉnh) | Tổng số học sinh | Số HS được uống thuốc | Tỷ lệ HS được uống thuốc (%) | Tỷ lệ HS có tác dụng phụ |
1 | Thừa Thiên Huế | 101.553 | 99.995 | 98,47 | 525(0,53) |
2 | Phú yên | 79.438 | 79.324 | 99,86 | 21 ( 0,03) |
Cộng | 180.991 | 179.319 | 99,08 | 546(0,30) |
-Nghiên cứu thử nghiệm mô hìnhphòng chống bệnh sán lá gan lớn theo nguồn tài trợ của WHO tại hai xã của huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
Kế hoạch phòng chống giun sán 6 tháng cuối năm 2009
1.Tăng cường công tác chỉ đạo phòng chống bệnh sán lá gan lớn, tiến hành làm các thủ tục nhập thuốc đặc hiệu Egaten 250 để kịp thời phục vụ cho công tác điều trị bệnh nhân.
2.Xây dựng Dự án phòng chống sán lá gan lớn cho khu vực miền Trung-Tây Nguyên (2010-2011) theo chỉ đạo của Bộ Y tế do Cục Y tế dự phòng & Môi trường làm đầu mối chỉ đạo thực hiện.
3.Xây dựng Đề án phòng chống các bệnh giun sán cho khu vực miền Trung-Tây Nguyên giai đoạn 2010-2015.
4.Nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá gan nhỏ tại một số diểm của tỉnh Quảng Trị.
5.Khảo sát tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn ở một số điểm của tỉnh Thừa Thiên-Huế và tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm mô hìnhphòng chống bệnh sán lá gan lớn theo nguồn tài trợ của WHO tại hai xã của huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định
6.Hỗ trợ kỹ thuật và một số dụng cụ cho labo nghiên cứu ký sinh trùng đường ruột cho tỉnh Quảng Ngãi.