Trong 5 tháng đầu năm 2010, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương trong nước, một số dịch bệnh nổi lên là cúm A(H5N1), tiêu chảy cấp do phẩy khuẩn tả, sốt xuất huyết, bệnh liên cầu lợn ở người…; trong khi nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân ngày một tăng, điều kiện cơ sở vật chất của các bệnh viện chưa được cải thiện làm cho tình trạng quá tải ở các cơ sở khám chữa bệnh, đặc biệt là những bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ương càng trở nên nan giải. Bên cạnh đó, tình trạng lạm phát và giá của một số mặt hàng tăng cao cũngảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của cán bộ y tế cơ sở.
Kết quả chỉ đạo điều hành các chương trình mục tiêu y tế quốc gia
Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chiến lược Chăm sóc sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010, tầm nhìn đến năm 2020; Quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2010; Kế hoạch 5 năm về Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2006-2010; Quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh đến năm 2010 và hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng về các chính sách y tế; ngành y tế đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ trong 6 tháng đầu năm 2010
Kết quả đạt được
Thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
Bộ Y tế đang tích cực triển khai quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2010; đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và Đề án “Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, thâm thần, ung bướu, chuyên khoa Nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2013.
Bộ đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn các Bộ ngành, các tỉnh thành phố thực hiện các kết luận của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập; 3 năm thực hiện Nghị quyết 46 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về “Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới” và 5 năm thực hiện Chỉ thị số 06 của Ban Bí thư về “Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở”; 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình”.
Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về y tế, trong 6 tháng đầu năm 2010, Bộ Y tế đang tiếp tục phối hợp với các đơn vị xây dựng Dự thảo Thông tư liên tịch giữa Bộ Công an và Bộ Y tế về việc hướng dẫn việc khám bệnh, chữa bệnh cho người bị tạm giữ, tạm giam, phạm nhân, trại viên, cơ sở giáo dục, học sinh trường giáo dưỡng tại bệnh viện của nhà nước; Dự thảo các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế thay thế Nghị định 45/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế gồm: Dân số, Khám chữa bệnh, An toàn vệ sinh thực phẩm, Bảo hiểm y tế, Y tế dự phòng và HIV/AIDS và Luật Phòng, chống tác hại thuốc lá. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2010, Bộ Y tế đã ban hành theo thẩm quyền 02 Thông tư liên tịch, 27 Thông tư; tham gia góp ý 37 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, ngành gửi đến.
Cải cách hành chính
Bộ Y tế đã rà soát 18 thủ tục ưu tiên, trong đó có 6 thủ tục hành chính được kiến nghị giữ nguyên toàn bộ nội dung và 12 thủ tục hành chính được kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Rà soát 243 thủ tục còn lại về phương án đơn giản hoá thủ tục hành chính theo yêu cầu cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ. Đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Công tác phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm
Bộ Y tế đã chỉ đạo các đơn vị thực hiện đúng chủ trương của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.Báo cáo kết quả việc kê khai, xác minh, kết luận, công khai kết quả kê khai tài sản, xác minh tài sản thu nhập thuộc diện kê khai theo quy định. Thường xuyên tổ chức sơ kết công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí tại cơ quan trong thời gian qua và đề ra chương trình công tác cho thời gian tới; tiến hành rà soát việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, thủ tục hành chính, tình hình tổ chức, bộ máy, lề lối làm việc; xem xét các phản ảnh, dư luận trong đảng viên, cán bộ, nhân dân, đơn thư khiếu nại, tố cáo về tình hình tham nhũng, lãng phí, nếu có biểu hiện trì trệ, tiêu cực phải củng cố, chấn chỉnh ngay.
Công tác y tế dự phòng
Bộ Y tế đã phối hợp với các địa phương, đơn vị liên quan chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở y tế chủ động thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh, giám sát và phát hiện sớm những ca dịch bệnh đầu tiên, khoanh vùng, dập dịch, không để dịch bệnh lan rộng, hạn chế tối đa các thiệt hại do dịch bệnh và có phương án dự phòng khi có thiên tai, thảm hoạ xảy ra. Đặc biệt Bộ Y tế đã tích cực chỉ đạo công tác phòng chống dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm, sốt xuất huyết, cúm A (H5N1), cúm A (H1N1), sởi, tay chân miệng, bệnh liên cầu lợn ở người. Tăng cường giám sát các trường hợp cúm tại cộng đồng, tại 15 điểm giám sát cúm quốc gia để phát hiện sớm, xử lý kịp thời các ổ dịch và theo dõi sự biến đổi của vi rút cúm A (H1N1), chủ động điều chỉnh các biện pháp phòng chống dịch, kiểm dịch y tế tại các cửa khẩu quốc tế, thành lập các bệnh viện dã chiến khi cần thiết. Xây dựng kế hoạch sử dụng vắc xin cúm A (H1N1) trong giai đoạn hiện nay nhằm tỷ lệ mắc và tử vong ở nhóm người có nguy cơ cao; người mắc bệnh mãn tính đang điều trị, phụ nữ mang thai, cán bộ y tế xét nghiệm cúm A (H1N1), cán bộ trực tiếp điều trị bệnh nhân cúm A (H1N1). Tổ chức chiến dịch phát hiện và xử lý 100% ổ bọ gậy, lăng quăng vệ sinh môi trường phòng chống suất xuất huyết và các bệnh dịch truyền nhiễm trên phạm vi toàn quốc, duy trì hoạt động này thành nhiệm vụ thường xuyên của địa phương để chủ động phòng, chống dịch. Chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời ổ dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm. Chỉ đạo các Viện Vệ sinh dịch tễ/Pasteur nghiên cứu yếu tố nguy cơ và giám sát chủng vi khuẩn gây tả tại Việt Nam. Trước diễn biến phức tạp của tình hình bệnh 6 tháng đầu năm, Bộ Y tế đã chủ động, phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành khác trong các hoạt động phòng chống dịch. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông đại chúng, Trung tâm truyền thông giáo dục sức khoẻ trung ương-Bộ Y tế, Tiểu Ban truyền thông-Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống đại dịch cúm ở người trong việc tổ chức tuyên truyền cho người dân về các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Tiếp tục triển khai Chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia, góp phần tích cực vào việc hạn chế số mắc các bệnh truyền nhiễm ở trẻ em.
Công tác phòng chống HIV/AIDS
Đã hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Chỉ đạo và có văn bản hướng dẫn các địa phương triển khai Tháng cao điểm dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. Tổ chức Đoàn công tác liên ngành để đánh giá tình hình dịch, công tác điều trị và chăm sóc HIV/AIDS, định hướng triển khai các biện pháp can thiệp kịp thời đối với dịch HIV/AIDS tại các tỉnh Điện Biên, Long An, Đồng Tháp, Bình Dương. Đã phối hợp với UNAIDS hoàn thiện Báo cáo UNGASS trình Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng ký gửi Liên Hiệp quốc và trình Thủ tướng chính phủ xin phê duyệt Đề án sản xuất và sử dụng Methadone giai đoạn 2010-2015.
Công tác khám chữa bệnh
Trong 06 tháng đầu năm 2010, Bộ Y tế đang tích cực tập trung xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực khám chữa bệnh; xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường, phần nội dung liên quan đến y tế; dự thảo Nghị định của Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề đối với cán bộ, công chức, viênc hức công tác tại các cơ sở y tế của Nhà nước; dự thảo Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh; dự thảo Nghị định về Bảo hiểm trách nhiệm trong khám, chữa bệnh,...
Bộ đã chỉ đạo và kiểm tra các đơn vị về công tác chuẩn bị sẵn sàng khám, chữa bệnh trong dịp Tết Nguyên đán Canh Dần 2010, hướng dẫn các đơn vị điều chỉnh thời gian đi luân phiên để đảm bảo việc nghỉ Tết cổ truyền cho cán bộ đi luân phiên. Đồng thời, chỉ đạo các Bệnh viện tại Hà Nội và Sở Y tế Hà Nội về việc đảm bảo công tác y tế phục vụ các Đại biểu Quốc hội tham dự Kỳ họp thứ 7 - Quốc hội khoá XII. Tổ chức đoàn khảo sát đánh giá hiện trạng các phòng xét nghiệm để chuẩn bị cho việc nâng cấp chất lượng phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO 15189.
Về công tác phòng chống dịch bệnh, thiên tai thảm hoạ, Bộ Y tế đã chỉ đạo các bệnh viện, viện có giường trực thuộc Bộ Y tế, Sở Y tế các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, Y tế ngành tổ chức triển khai và kiểm tra chặt chẽ công tác phát hiện, cấp cứu thu dung điều trị, cách ly và chăm sóc người bệnh.Đồng thời chỉ đạo việc tăng cường công tác hỗ trợ tuyến và chỉ đạo tuyến, phổ biến và triển khai tập huấn cho các cơ sở khám chữa bệnh chuẩn bị sẵn sàng chủ động về cơ sở vật chất, giường bệnh, trang thiết bị, nhân lực, thuốc, vật tư đảm bảo thu dung, chẩn đoán và điều trị bệnh nhân trong vụ dịch sốt phát ban dạng sởi; dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm trong đó có nguyên nhân do phẩy khuẩn tả; sèt xuÊt huyÕt; cóm A (H5N1) vµ cóm A (H1N1).
Công tác quản lý môi trường y tế
Bộ đã chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở y tế quản lý chất thải (bao gồm: thu gom, lưu giữ, vận chuyển, xử lý chất thải) và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong các cơ sở y tế theo đúng qui định. Hướng dẫn xây dựng nội dung, tổ chức thẩm định và trình Lãnh đạo Bộ phê duyệt chi tiết các nhiệm vụ bảo vệ môi trường năm 2010. Phối hợp với các Viện hướng dẫn, triển khai hoạt động quan trắc môi trường tại các cơ sở y tế; xây dựng và triển khai kế hoạch hoạt động Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch- vệ sinh môi trường nông thôn năm 2010 (hợp phần vệ sinh của Bộ Y tế). Chỉ đạo các đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch và triển khai các hoạt động của hợp phần vệ sinh thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch- vệ sinh môi trường nông thôn. Triển khai các hoạt động giám sát chất lượng nước dùng cho ăn uống, sinh hoạt, các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường; Ngày môi trường thế giới 5/6. Báo cáo tình hình giám sát chất lượng nước và nhà tiêu hộ gia đình, trạm Y tế xã. Hướng dẫn đơn vị, địa phương triển khai thí điểm các mô hình nhà tiêu hợp vệ sinh. Phối hợp với Viện Dinh dưỡng triển khai điều tra nghiên cứu đánh giá mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng trẻ em với các điều kiện về nước sạch, vệ sinh môi trường. Tổ chức xây dựng kế hoạch chi tiết các hoạt động năm 2010 của Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu và chỉ đạo các đơn vị trong ngành y tế, đề xuất nhiệm vụ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu. Chỉ đạo triển khai chương trình phòng chống bệnh nghề nghiệp năm 2010 về các hoạt động tuyên truyền nâng cao sức khỏe, khám, giám định, điều trị và phục hồi chức năng bệnh nghề nghiệp. Xây dựng Hướng dẫn quy trình đánh giá tác động sức khỏe do ô nhiễm môi trường công nghiệp.
Công tác phát triển y, dược học cổ truyền
Bộ tiếp tục chỉ đạo các Sở Y tế các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện tăng cường công tác Quản lý nhà nước về hành nghề y dược cổ truyền tư nhân trên phạm vi cả nước năm 2010. Chỉ đạo các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện phát triển nền Đông y Việt Nam và Hội Đông Y Việt Nam trong tình hình mới. Song song với việc kiện toàn hệ thống khám chữa bệnh bằng y dược học cổ truyền (YDCT) cũng như hệ thống quản lý, Bộ đã tiếp tục chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ,tăng chỉ tiêu chiêu sinh, khuyến khích các trường đại học, cao đẳng và trung cấp y, dược mở lớp đào tạo trong đó chú trọng đào tạo y sỹ,bác sỹ chuyên khoa y dược học cổ truyền đáp ứng nhu cầu cán bộ có năng lực cho tuyến đặc biệt là tuyến huyện và xã. Tạo điều kiện cho đội ngũ bác sỹ học cao học và nghiên cứu sinh…nhằm nâng cao năng lực, kiến thức đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh, ngày càng thu hút bệnh nhân đến khám và điều trị bằng YHCT. Đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ quản lý, hoàn thiện hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương.
Công tác nghiên cứu khoa học
Bộ đã phối hợp với Trung ương Hội Đông y Việt Nam hướng dẫn các địa phương thực hiện các nghiên cứu kế thừa - ứng dụng, nuôi trồng và chế biến dược liệu đặc biệt là nghiên cứu kết hợp y dược học cổ truyền kết hợp y dược học hiện đại nhằm xây dựng nền y học cổ truyền Việt Nam khoa học, dân tộc và địa chúng. Ngoài ra, công tác phát triển dược liệu cả về số lượng và chất lượng dược liệu cũng được đặc biệt chú trọng nhằm tăng hiệu quả điều trị cho bệnh nhân. Điều tra và quy hoạch vùng nuôi, trồng dược liệu, tìm hiểu tác dụng của các cây, con có tác dụng chữa bệnh, bảo tồn quỹ gen của các loài thuốc quý hiếm. Khuyến khích phát triển nguồn dược liệu có sẵn trong nước, hướng dẫn nhân dân nuôi, trồng và sử dụng dược liệu có sẵn tại cộng đồng trong công tác phòng và chữa bệnh.
Đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu phòng, chữa bệnh bằng thuốc y học cổ truyền đặc biệt đảm bảo đủ thuốc trong danh mục thuốc thiết yếu và thuốc chủ yếu với giá ổn định. Mạng lưới quản lý, khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền (YHCT) từng bước củng cố và phát triển. Hiện nay trên cả nước có 02 phòng quản lý YDCT, 56,9% tỉnh có cán bộ chuyên trách, 43,1% số tỉnh có cán bộ bán chuyên trách chấm dứt tình trạng không có cán bộ như trước đây theo dõi công tác YDCT. Đến nay cả nước có 58 bệnh viện y học cổ truyền, 93,3% bệnh viện y học hiện đại có khoa hoặc tổ YHCT, 76,2% số trạm y tế xã có hoạt động khám chữa bệnh bằng YHCT, 79,3% số trạm y tế có vườn thuốc nam.Tỷ lệ khám chữa bệnh bằng YHCT cũng ngày càng phát triển. Tỷ lệ lượt người được khám bằng YHCT và kết hợp YHCT với YHHĐ so với tổng số người bệnh được khám và điều trị chung là: tỷ lệ bệnh nhân điều trị nội trú: 14,1%, tỷ lệ bệnh nhân điều trị ngoại trú: 19,7%, tỷ lệ giường dành cho YHCT/tổng chung: 7,24%.
Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em
Bộ đã hướng dẫn các địa phương xây dựng và triển khai kế hoạch hoạt động dự án Mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản (MTQGCSSKSS) năm 2010. Ký hợp đồng với các Bộ/ngành/đơn vị liên quan triển khai các hoạt động trong khuôn khổ dự án MTQGCSSKSS. phê duyệt và hướng dẫn các tỉnh thuộc dự án thực hiện hỗ trợ thù lao cho cán bộ làm công tác CSSKSS ở các xã trọng điểm và đội ngũ cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số. Hoàn thành các lớp đào tạo về quản lý dự án MTQGCSSKSS, đào tạo giảng viên tuyến tỉnh về các nội dung Làm mẹ an toàn; Phá thai an toàn; Phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản cho 31 tỉnh của dự án MTQG. Hiện đang tiếp tục tổ chức các lớp về Cứu sống sơ sinh, lồng ghép nhiễm khuẩn đường sinh sản trong dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản,...và nhiều lớp đào tạo giảng viên tuyến tỉnh cập nhật hướng dẫn quốc gia về CSSKSS về các nội dung Làm mẹ an toàn, Phá thai an toàn, Phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản, chăm sóc sơ sinh, lồng ghép nhiễm khuẩn đường sinh sản trong dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản,...
Tổ chức đoàn giám sát liên ngành với Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính về thực hiện dự án MTQGCSSKSS năm 2009 và xây dựng, triển khai kế hoạch 2010 tại Lâm Đồng. Giám sát hỗ trợ kỹ thuật dịch vụ Phá thai an toàn tại Bà rịa - Vũng Tàu, Khánh Hoà, Tp.Hồ Chí Minh, Hà Giang và chỉ đạo các tỉnh, thành phố về tăng cường chăm sóc sức khoẻ trẻ em, dự phòng tích cực dịch bệnh ở trẻ em trong thời tiết chuyển mùa.
Công tác quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm
Hoạt động kiểm tra, thanh tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) trong thời gian qua đã được tăng cường nên đã phát huy hiệu quả tích cực, đã kịp thời phát hiển và xử lý nhiều vụ vi phạm pháp luật về VSATTP. Trong quý I/2010, công tác thanh, kiểm tra tập trung trong dịp tết Nguyên đán Canh Dần theo Kế hoạch số 1197/KH-BYT ngày 22/12/2010 của Bộ Y tế. T¹i Trung ương đã thành lập được 10 đoàn thanh, kiểm tra liên ngành với sự tham gia của 6 Bộ, ngành tiến hành thanh, kiểm tra tại 30 tỉnh, thành phố. Tại địa phương đãthànhlậpđược 4.521 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành và chuyên ngành VSATTP (bao gồm cả tuyến tỉnh, huyện và một số tuyến xã) với sự tham gia của các ngành: y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn, khoa học và công nghệ, công thương, công an. Nội dung thanh, kiểm tra tập trung vào: Giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP; giấy chứng nhận sức khỏe, tập huấn kiến thức VSATTP; hồ sơ công bố tiêu chuẩn sản phẩm, hồ sơ đăng ký quảng cáo; nhãn sản phẩm hàng hóa; điều kiện VSATTP tại cơ sở; hồ sơ nguồn gốc sản phẩm hàng hóa, nguyên liệu, phụ gia thực phẩm... Công tác hậu kiểm tiếp tục được đẩy mạnh và ưu tiên hàng đầu. Ngay từ đầu năm, Bé Y tÕ đã có Kế hoạch số 01/KH-BCĐTƯVSATTP về triển khai công tác hậu kiểm chất lượng VSATTP liên tục trong 12 tháng của năm 2010. Trong 6 tháng đầu năm, Bộ Y tế đã tập trung thanh, kiểm tra việc chấp hành các quy định về VSATTP trong dịp Tết Nguyên đán Canh Dần và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức 2 đoàn hậu kiểm của trung ương triển khai tại 5 tỉnh, thành phố, tập trung vào các sản phẩm sữa nhập khẩu và sản xuất trong nước.
Hoạt động tuyên truyền thời gian qua tập trung vào việc phổ biến chính sách pháp luật về quản lý chất lượng VSATTP, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng thực phẩm; tập huấn kiến thức cho nông dân, cho người chế biến, kinh doanh thực phẩm... Công tác truyền thông còn được tăng cường trong những thời gian cao điểm như tháng hành động về chất lượng VSATTP, trong những ngày lễ, tết hoặc những thời điểm xảy ra dịch bệnh... Theo kết quả điều tra KAP 2009 của Cục An toàn vệ sinh thực phẩm cho thấy, tỷ lệ có nhận thức đúng về VSATTP đối với người lãnh đạo là 81,5%, tiêu dùng là 65,5%, người sản xuất, kinh doanh thực phẩm là 65,1%.
Công tác quản lý dược trong 6 tháng đầu năm 2010
Ngành Dược đã có chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong công tác quản lý nhà nước. Thị trường thuốc bình ổn, đảm bảo đủ thuốc có chất lượng, giá cả ổn định phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân và dự trữ đủ thuốc cho phòng chống dịch bệnh thiên tai thảm họa. Bên cạnh việc củng cố, mở rộng thị trường trong nước, phục vụ tốt cho điều trị tại bệnh viện, bảo hiểm y tế; các doanh nghiệp dược Việt Nam đã quan tâm hơn đến thị trường nước ngoài.
Ngoài nhiệm vụ đảm bảo cung ứng đủ thuốc cho nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo các đơn vị đảm bảo cung ứng đủ thuốc trong các trường hợp đột xuất như công tác phòng chống thiên tai dịch bệnh: chỉ đạo các đơn vị sản xuất kinh doanh, Tổng Công ty Dược Việt Nam, Sở Y tế các tỉnh, thành phố trong cả nước chuẩn bị đầy đủ nguồn thuốc, dịch truyền và dụng cụ cần thiết khác để phục vụ cho công tác phòng chống dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm; có các giải pháp để tăng nguồn cung nhằm góp phần bình ổn thị trường, tránh hiện tượng tăng giá do thiếu thuốc cục bộ. Trong 6 tháng đầu năm, Bộ đã cấp giấy phép nhập khẩu thuốc thành phẩm cho 61 đơn hàng chưa có số đăng ký, tổ chức thẩm định điều kiện sản xuất thuốc từ dược liệu tại 14 cơ sở sản xuất; cấp 28 Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc, trong đó có 08 Cơ sở sản xuất thuốc từ dược liệu. Thẩm định hồ sơ và trình lãnh đạo Bộ cấp 08 chứng chỉ hành nghề dược cho các cá nhân đăng ký phụ trách chuyên môn dược cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cấp mới, bổ sung cho 58 Giấy phép hoạt động doanh nghiệp nước ngoài.
Bộ đã thực hiện tốt Quy chế đăng ký thuốc và các văn bản liên quan đã tạo ra hành lang pháp lý để các đơn vị đăng ký thuốc, góp phần làm ổn định và phát triển mặt hàng thuốc lưu hành tại Việt Nam. Tính đến ngày 31/05/2010, Bộ đã cấp số đăng ký cho 1597 thuốc trong nước, 1341 thuốc nước ngoài, 2 số đăng ký vắc xin, 5 sinh phẩm y tế.
Tăng cường công tác phòng chống thuốc giả, thuốc kém chất lượng, Bộ đã tham gia xử lý kịp thời tình hình thuốc giả và làm đầu mối hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng, Ban chỉ đạo 127 Trung ương tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đấu tranh phòng chống thuốc giả. Đồng thời, công tác kiểm tra chất lượng thuốc đầu nguồn và kiểm tra hậu mại thường xuyên được chú trọng và tăng cường, tỡnh hỡnh chất lượng thuốc về cơ bản được kiểm soát tốt, chất lượng thuốc sản xuất trong nước ngày càng được đảm bảo. Bộ thường xuyên chỉ đạo Viện Kiểm nghiệm thuốc, Thanh tra Bộ tăng cường lấy mẫu kiểm tra chất lượng thuốc lưu hành trên thị trường và xử lý các lô thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng.
Bộ Y tế đã kiểm soát giá thuốc định kỳ hàng tháng về tình hình diễn biến kiểm soát thị trường giá thuốc, giá thuốc tăng hạn chế, không có sự tăng giá bất hợp lý, tăng đột biến và thấp hơn nhiều so với chỉ số giá tiêu dùng toàn xã hội. Nhìn chung, thị trường dược phẩm trong 5 tháng đầu năm 2010 tương đối ổn định. Chỉ số CPI của nhóm hàng Thuốc và Dịch vụ Y tế trong tháng 5 là 1,63% so với chỉ số giá tiêu dùng chung là 4,55% (đứng thứ 9/11 so với 11 nhóm hàng chủ yếu).
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình
Có 63/63 Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước đã kiện toàn và từng bước ổn định. Hầu hết các tỉnh đều thành lập 3 phòng tại Chi cục theo đúng hướng dẫn tại Thông tư số 05/2008/TT-BYT ngày 14/5/2008 của Bộ Y tế; có 4 tỉnh/TP (Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hậu Giang) thành lập 4 phòng. 10 tỉnh/TP là: Hà Nội, Hoà Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Bình Định, Bình Dương, Tiền Giang và Kiên Giang thành lập Trung tâm Tư vấn, dịch vụ DS-KHHGĐ (các Trung tâm được thành lập trên cơ sở Trung tâm Tư vấn dịch vụ Dân số, Gia đình và Trẻ em thuộc Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây); Trung tâmnày là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ, với tổng số biên chế được giao của 10 Trung tâm là 59 chỉ tiêu. Số cán bộ hiện có là 59, trong đó 54 biên chế và 05 hợp đồng. Nhìn chung Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh, Trung tâm DS-KHHGĐ các huyện đã từng bước ổn định và triển khai theo chức năng và nhiệm vụ được giao. Một số chỉ tiêu kế hoạch 6 tháng đầu năm đã bước đầu thu được kết quả khả quan.Tổng số trẻ em sinh trong trong 4 tháng đầu năm 2010 là 354.841 trẻ, giảm 2,91% (10.658 trẻ) so với cùng kỳ năm 2009, số trẻ em sinh ra là con thứ 3 trở lên là 34.412 trẻ, giảm 6,32% (2.323 trẻ) so với cùng kỳ năm 2009.
Bộ đã phối hợp với các tỉnh/thành phố trong việc hướng dẫn xây dựng và duy trì việc triển khai thực hiện, mở rộng các mô hình, đề án về nâng cao chất lượng dân số và can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh tại địa phương. Phối hợp với Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông, tiến hành thanh tra, kiểm tra kiểm tra việc khắc phục sai phạm trong công tác xuất bản, phát hành, kinh doanh lưu truyền sách, ấn phẩm và thông tin điện tử có nội dung phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi tại 03 Chi cục DS - KHHGĐ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Thanh Hoá, 07 nhà xuất bản, 05 Tổng công ty và Công ty phát hành sách và 03 Nhà sách, kiểm tra rà soát 7/7 trang thông tin điện tử (Website) năm 2009 đã kiểm tra. Đến nay đã có 7/7 Nhà xuất bản ban hành văn bản thu hồi, dừng phát hành ấn phẩm có nội dung phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi, 6/7 Trang thông tin điện tử đã gỡ bỏ nội dung phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi.
Công tác hợp tác quốc tế
Trong 6 tháng đầu năm 2010, Bộ đã tổ chức thành công 02 Cuộc họp nhóm các đối tác Y tế (HPG) do Lãnh đạo Bộ Y tế chủ trì với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan và các đối tác y tế nước ngoài. Tổ chức Lễ khánh thành toà nhà xét nghiệm virut lây truyền qua đường máu trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa Việt Nam và Ai-len. Tổ chức Lễ ký hợp tác phát triển giữa Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E và Trường Đại học Okayama (Nhật Bản). Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các cơ quan liên quan chuẩn bị thành công Hội nghị Bộ trưởng quốc tế lần thứ 7 về cúm gia cầm và đại dịch cúm. Chuẩn bị thành công buổi họp sơ kết chương trình hợp tác y tế Việt – Lào. Tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về “Ứng dụng tế bào gốc trong y học” được tổ chức vào giữa tháng 5 năm 2010 với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế đến từ Nhật Bản, Pháp, Mỹ. Tổ chức đón tiếp Đoàn cán bộ Bộ Y tế Philipine sang học tập và trao đổi kinh nghiệm về công tác điều phối viện trợ của ngành y tế Việt Nam vào cuối tháng 4 năm 2010. Tham gia các cuộc họp của tiểu ban y tế ASEAN, trong chuỗi các sự kiện của ASEAN nhân dịp Việt Nam là chủ tịch ASEAN.
Đang tiếp tục theo dõi, thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa Bộ Y tế và các đối tác song phương và đa phương như hợp tác với WHO, hợp tác với các nước trong khu vực ASEAN, mở rộng các hợp tác kỹ thuật với các nước như Thuỵ Điển, Đức, Hà Lan, úc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Điều phối/hỗ trợ điều phối chuẩn bị tổ chức các sự kiện y tế lớn trong năm 2010: Hội nghị về phòng chống bệnh truyền nhiễm các nước khu vực sông Mê Kông-Hoa Kỳ, Hội nghị ASEAN về phòng chống tai nạn thương tích, Hội nghị ASEAN lần thứ 2 về Y dược cổ truyền, Hội nghị khoa học kinh tế y tế, Hội nghị quốc tế của Liên minh toàn cầu về lao, Hội nghị khu vực Thái bình dương về nội soi. Chủ động xúc tiến, đàm phán và ký kết các văn bản hợp tác mới trong lĩnh vực y tế với các đối tác nước ngoài. Tích cực tham dự các phiên họp, đàm phán liên quan đến hội nhập trong y tế của các nước và quốc tế.
Công tác tổ chức cán bộ và chăm lo chế độ chính sách cho cán bộ y tế
Để củng cố bộ máy tổ chức của ngành y tế, Bộ đã khẩn trương hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 22/QĐ-TTg ngày 09/3/2010 của Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Điều 3 Nghị định số 188/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế trong đó thành lập Cục Quản lý môi trường y tế và đổi tên Cục Y tế dự phòng và môi trường thành Cục Y tế dự phòng, thuộc Bộ Y tế. Ngày 22/3/2010 Bộ trưởng Bộ Y tế - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính đã ký Thông tư liên tịch số 06/2010/TTLT-BYT-BNV-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64/2009/NĐ-CP ngày 30/7/2009 về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Tổ chức thẩm định và trình Bộ trưởng Bộ Y tế ký Quyết định phê duyệt Điều lệ Tổ chức và hoạt động của các đơn vị mới được thành lập hoặc đổi tên theo Quyết định số 1874/QĐ-TTg ngày 12/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ (Viện Công nghệ thông tin – Thư viện y học Trung ương, Bệnh viện Phổi Trung ương, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội, Viện Chiến lược và Chính sách y tế, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Dân số - Y tế).
Tiếp tục tổ chức thẩm định đề án thành lập các tổ chức thuộc các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ: Viện nghiên cứu sức khoẻ trẻ em, Viện Đái tháo đường và Rối loạn chuyển hoá; các Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo tuyến thuộc các Bệnh viện, các viện; Trung tâm Ung bướu tại các bệnh viện.
Công tác thanh tra
Bộ Y tế đã phối hợp với Cục Cảnh sát môi trường, Cục Quản lý thị trường Hà Nội tiến hành thanh tra đột xuất về vệ sinh an toàn thực phẩm tại 01 cơ sở kinh doanh thực phẩm đông lạnh tại Hà Nội, đã tiến hành xử phạt cơ sở với hình thức cảnh cáo (do cơ sở kinh doanh thực phẩm không có giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm), phạt tiền 12.500.000 đồng (do cơ sở kinh doanh 7 loại thực phẩm có chứa vi khuẩn E.coli và S.Aureus vượt quá giới hạn cho phép). Tiến hành phạt bổ sung với hình thức tiêu hủy 7 loại thực phẩm đông lạnh với tổng số 2865kg. Xử lý vi phạm 04 đơn vị về quảng cáo thực phẩm, ghi nhãn, tiến hành nhắc nhở 03 cơ sở, phạt tiền 01 cơ sở với tổng số tiền phạt là 15.000.000đ. Trong 6 tháng đầu năm,Thanh tra Y tế cả nước đã tiến hành thanh, kiểm tra được 503 cơ sở liên quan đến lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý chuyên môn về dược và kinh doanh dược, trong đó có 120 cơ sở vi phạm, số cơ sở vi phạm bị xử lý là 67 cơ sở với các hình thức phạt cảnh cáo là 10 cơ sở, phạt tiền 57 cơ sở với tổng số tiền phạt là 198.020.000 đồng. Kiểm tra được 544 cơ sở liên quan đến lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý chuyên môn về khám chữa bệnh, trong đó có 215 cơ sở vi phạm, số cơ sở vi phạm bị xử lý là 55 cơ sở với các hình thức phạt cảnh cáo là 23 cơ sở, phạt tiền 32 cơ sở với tổng số tiền phạt là 39.750.000 đồng.
Trong 6 tháng đầu năm, trên cả nước có 121 lượt công dân đến phản ánh, khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác quản lý Nhà nước về y tế tại Bộ Y tế và các Sở Y tế; nhận được 498 đơn thư khiếu nại, tố cáo bao gồm: 198 đơn khiếu nại (chiếm 39,8%), 154 đơn tố cáo (chiếm 30,9%), 146 đơn phản ánh (chiếm 29,3%). Hầu hếtnội dung đơn liên quan đến tai biến trong điều trị, khiếu nại về chế độ chính sách (chế độ lương, phụ cấp ngành,...), kết luận giám định y khoa, xin đăng ký phương pháp chữa bệnh, bài thuốc chữa bệnh.... Phối hợp với một số đơn vị tiến hành thanh tra, kiểm tra việc khắc phục sai phạm trong công tác xuất bản, phát hành, kinh doanh, lưu truyền sách, ấn phẩm và thông tin điện tử có nội dung phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hoá. Tổ chức đoàn thanh, kiểm tra việc quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần và tiền chất tại Bình Dương và bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh; thanh tra việc tiếp nhận, bảo quản, phân phối và sử dụng thuốc ARV điều trị HIV/AIDS tại Hà Giang, Tuyên Quang.
Công tác trang thiết bị và công trình y tế
Tiếp tục triển khai các nội dung chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân kết luận tại Hội nghị đánh giá kết quả triển khai chính sách quốc gia về trang thiết bị y tế và đề án nghiên cứu sản xuất trang thiết bị y tế (TTBYT) tổ chức vào tháng 3/2009 tại Hà Nội. Tổ chức thẩm định đủ điều kiện sản xuất TTBYT cho các doanh nghiệp theo quy định hiện hành của Nhà nước, cấp và gia hạn các đăng ký lưu hành sản phẩm trang thiết bị y tế theo quy định. Rà soát các nội dung, văn bản quy phạm cần phải bổ sung, sửa đổi trong lĩnh vực TTBYT cho phù hợp với Luật Khám chữa bệnh. Tổ chức hướng dẫn Bệnh viện E khẩn trương hoàn chỉnh các thủ tục triển khai dự án Trung tâm Tim mạch để hoàn thành và đưa vào sử dụng trong tháng 2/2010. Đã hoàn thiện quy định quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình y tế sử dụng ngân sách nhà nước, chuẩn bị trình lãnh đạo Bộ ký ban hành; tổng hợp các văn bản pháp quy và tài liệu có liên quan, chuẩn bị tổ chức hội nghị tập huấn công tác quản lý đầu tư xây dựng ngành y tế năm 2010 cho các đơn vị trực thuộc Bộ. Tổ chức thẩm định kế hoạch đấu thầu các hạng mục công trình đấu thầu trong năm 2010 và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc khẩn trương hoàn chỉnh các dự án xử lý nước thải theo quy định để triển khai thực hiện trong năm 2010.
Công tác kế hoạch tài chính
Bộ Y tế đã chỉ đạo và đôn đốc các đơn vị sớm triển khai kế hoạch về đầu tư từ các nguồn vốn thực hiện Quyết định số 47/QĐ-TTg và QĐ 930/QĐ-TTg. Về tình hình thực hiện, giải ngân vốn 2009 đến 31/3/2010 là 50 tỷ/80 tỷ kế hoạch (đạt 63%); đến 30/5/2010 giải ngân đạt 80%. Tổng vốn Thủ tướng chính phủ giao 2010 là 380 tỷ, hiện nay các dự án đều đẩy nhanh tiến độ. Con số giải ngân đến 31/3/2010 đạt 24,4% (92,750 tỷ đồng). ước giải ngân đến 30/5/2010 đạt 40%.
Chủ trì xây dựng và triển khai thực hiện một số dự án ODA: ký kết hiệp định với WB thực hiện Dự án Hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc Miền Trung (vay WB: 65 triệu USD); bắt đầu triển khai Dự án Nam miền trung (vay ADB: 72 triệu USD), tiếp tục xây dựng báo cáo khả thi đầu tư cho khoảng 15 bệnh viện tỉnh từ nguồn vốn vay JICA Nhật Bản (khoảng 150 triệu USD), tiếp tục triển khai tốt Dự án Hỗ trợ Y tế các tình miền núi phía bắc theo đúng tiến độ (70 triệu USD vay WB). Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên trong các lĩnh vực: đấu thầu mua sắm, tài chính kế toán, xây dựng cơ bản... tại các địa phương và đơn vị trong lĩnh vực phụ trách theo chức năng nhiệm vụ.
Tiếp tục thực hiện tốt công tác y tế quốc phòng. Tham mưu cho Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số 02/CT-BYT ngày 15/3/2010 về thực hiện công tác quốc phòng trong ngành y tế năm 2010; Trình Bộ trưởng phê duyệt Kế hoạch số 385/KH-BYT ngày 12/5/2010 về Tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện công tác Giáo dục Quốc phòng-An ninh ngành y tế (2001-2010) và hướng dẫn các đơn vị tổ chức tổng kết, báo cáo. Chỉ đạo xây dựng các báo cáo vùng trọng điểm, báo cáo tổng quan ngành, báo cáo thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, báo cáo Phát triển bền vững. Chỉ đạo công tác quy hoạch, rà soát, đôn đốc và tổ chức thẩm định các quy hoạch đơn vị, địa phương.
Công tác Bảo hiểm y tế
Phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức 6 tổ công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Luật Bảo hiểm y tế tại 14 bệnh viện theo Kế hoạch số 1189/KH-BYT ngày 21/12/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Tổ chức giám sát tình hình thực hiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi tại Hải Phòng, Cần Thơ và Khánh Hoà và tổ chức 02 Hội nghị sơ kết tình hình triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm y tế tại Ninh Bình, Khánh Hoà. Theo báo cáo của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2010 ước tính có 50 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, đạt tỷ lệ bao phủ 58%, trong đó có 15 triệu người nghèo, 9 triệu trẻ em dưới 6 tuổi, 15 triệu học sinh sinh viên, bắt buộc khác 6 triệu người, tự nguyện 5 triệu người.
Công tác khoa học và đào tạo
Bộ Y tế đã tổ chức thẩm định đề tài tuyển chọn độc lập cấp Bộ triển khai năm 2010, đề tài/nhiệm vụ KH&CN năm 2010. Phối hợp với các đơn vị tổ chức thành công Hội thảo khoa học về tư vấn lấy, ghép bộ phận cơ thể người và Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các trường y dược Việt Nam lần thứ XV. Giám sát tình hình thực hiện Chỉ thị 02/CT-BYT ngày 25/2/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế và đang xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động y tế trên môi trường mạng. Chỉ đạo các cơ sở đào tạo thực hiện các chương trình đào tạo đại học, sau đại học, cao đẳng và trung cấp. Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định năng lực đào tạo một số mã ngành trình độ đại học và cao đẳng y dược; thống nhất một số nội dung về đào tạo theo nhu cầu xã hội, tuyển sinh, mở mã ngành đào tạo, đào tạo sau đại học; tổ chức thành công Hội nghị Đào tạo theo nhu cầu xã hội nguồn nhân lực y dược lần thứ 2 tại Hải Phòng.
Công tác thi đua khen thưởng
Tổ chức xét tặng Danh hiệu Thầy thuốc nhân dân - Thầy thuốc Ưu tú đợt 9 năm 2009 và đã được Chủ tịch nước ký Quyết định phong tặng Danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân cho 73 cá nhân và Thầy thuốc Ưu tú cho 1233 cá nhân. Tại Lễ kỷ niệm 55 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/02/2010), Bộ Y tế đã long trọng tổ chức Lễ trao tặng Danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân cho 73 cá nhân và đã được Chủ tịch nước trực tiếp trao tặng. Xây dựng Kế hoạch hướng dẫn các đơn vị trực thuộc triển khai tổ chức Hội nghị điển hình tiên tiến cấp cơ sở để bình bầu đại biểu tham dự Đại hội Thi đua yêu nước ngành Y tế lần thứ V, dự kiến được diễn ra vào tháng 9/2010. Triển khai phổ biến cho các đơn vị trực thuộc Nghị định 42/2010/NĐ-CP, ngày 15/4/2010 thay thế Nghị định 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng. Hiệp y thành tích đề nghị khen thưởng Bằng khen Thủ tướng Chính Phủ, Huân chương các loại, đề nghị xét phong tặng Danh hiệu anh hùng lao động, Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Cờ thi đua Chính phủ theo đề nghị của Ban Thi đua Khen thưởng trung ương. Làm thủ tục trình Nhà nước tặng thưởng 57 Huân chương các loại cho các tập thể và cá nhân, xét phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới cho 02 tập thể, công nhận 07 chiến sỹ thi đua toàn quốc, 11 cờ thi đua Chính phủ, 143 Bằng khen Thủ tướng Chính phủ. Làm thủ tục đề nghị xét tặng 1.808 Bằng khen của Bộ Y tế, 10.169 Kỷ niệm chương "Vì sức khoẻ nhân dân", 10.465 Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp Dân số Kế hoạch hóa gia đình", 98 Cờ thi đua của Bộ Y tế, 338 chiến sỹ thi đua cấp Bộ, 765 tập thể Lao động xuất sắc. Tổ chức thành công Hội nghị tổng kết công tác thi đua khen thưởng của Khối thi đua các Bộ ngành Khoa học-Văn hóa-Xã hội năm 2009 do Bộ Y tế làm Khối trưởng vào tháng 3/2010.
Những công việc chưa đạt được và nguyên nhân
Tuy đã đạt những kết quả đáng kể như đã nêu, Bộ Y tế vẫn còn giải quyết một số vấn đề chậm chễ bởi những lý do chủ quan và khách quan như việc phối hợp giữa các Bộ, ngành về quản lý thực phẩm nhập khẩu còn có lúc chưa đồng bộ, chặt chẽ. Bộ Y tế còn gặp một số khó khăn trong việc thực hiện chống quá tải nh: kinh phí nhà nước đầu tư cho y tế còn thấp; năng lực các bệnh viện tuyến cơ sở còn yếu, quá trình nâng cao năng lực và củng cố y tế tuyến cơ sở cần phải có thời gian; Cơ chế tài chính bệnh viện còn nhiều bất cập; quá trình quá tải các bệnh viện tuyến trên đã diễn ra nhiều năm, nhiều bệnh viện đã cố gắng hết sức trong việc kê thêm giường bệnh, nếu nhu cầu khám chữa bệnh tại các bệnh viện tuyến trên tiếp tục tăng thì sẽ rất khó khăn cho các bệnh viện trong việc tăng giường bệnh cơ học. Tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ ở địa phương chậm được kiện toàn, nhất là mô hình quản lý cán bộ DS-KHHGĐ cấp xã chưa thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ chưa đủ mạnh để có thể tổ chức triển khai các hoạt động của chương trình. Đặc biệt, có tới 87% cán bộ DS-KHHGĐ cấp xã chưa được tuyển dụng thành viên chức của Trạm Y tế xã, nguy cơ ”vỡ trận” không có cán bộ thực hiện công tác DS-KHHGĐ tuyến cơ sở, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng khó khăn. Số cán bộ mới tuyển dụng và điều động chưa được tập huấn nghiệp vụ chuyên môn về DS-KHHGĐ. Hai biện pháp tránh thai hiện đại có tác dụng lâu dài và hiệu quả cao là triệt sản và vòng tránh thai có xu hướng giảm so với các năm trước đây, đặc biệt là biện pháp triệt sản đã giảm mạnh. Số lượng và cơ cấu sử dụng biện pháp tránh thai chưa bảo đảm để duy trì mức sinh thay thế; Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại chưa đạt yêu cầu; Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai không hiện đại hoặc có tác dụng ngắn hạn (thuốc tiêm, thuốc cấy) có xu hướng ngày càng tăng. Các biện pháp thực hiện công tác DS-KHHGĐ thiếu đồng bộ và chưa kịp thời như: Một số tỉnh giao kế hoạch và dự toán ngân sách chậm theo tiến độ quy định của Chính phủ, thậm chí có tỉnh đến cuốitháng 3 mới giao kế hoạch; còn 7 tỉnh giao chỉ tiêu mức giảm sinh thấp hơn so với Trung ương giao; Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về DS-KHHGĐ nói chung và các quy định nghiêm cấm hành vi tuyên truyền, lựa chọn giới tính thai nhi cho cộng đồng nói riêng còn hạn hạn chế; công tác quản lý, kiểm tra của cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương còn buông lỏng, thiếu thường xuyên nên còn nhiều đơn vị vi phạm về quy định này chưa được kiểm tra và xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Theo báo cáo của 55/63 Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm hiện nay hầu hết các Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm chưa có trụ sở riêng biệt để làm việc, chủ yếu là mượn tạm một số phòng của Trung tâm Y tế dự phòng, Sở Y tế, Trung tâm truyền thông giáo dục sức khoẻ hoặc Chi cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình với diện tích rất nhỏ hẹp, chật chội. Với điều kiện cơ sở hạ tầng như hiện nay, các Chi cục rất khó khăn trong việc triển khai các nhiệm vụ được giao, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc chuyên môn, nghiệp vụ. Hệ thống trang thiết bị thiết yếu phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ tại các Chi cục đều rất thiếu, chỉ có từ 1-2 máy vi tính, bàn ghế làm việc, tủ đựng tài liệu… Phương tiện đi lại hầu như không có hoặc mượn tạm của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh những xe đã cũ nát, đã qua thời gian sử dụng trên 10 năm.
Về nguồn nhân lực, trung bình mỗi Chi cục có 11 người, chưa đáp ứng được yêu cầu về nhân lực để hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Trong khi đó, để đáp ứng các nhiệm vụ của Chi cục, mỗi Chi cục cần có trung bình từ 20 - 30 người (riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tối thiểu cần có 50 người), như vậy so với yêu cầu nhân lực hiện có mới chỉ đạt 50%. Mặt khác, một số cán bộ của Khoa An toàn vệ sinh thực phẩm thuộc Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh không muốn chuyển sang Chi cục vì chức năng, nhiệm vụ không thay đổi mà lại không được hưởng 35% phụ cấp đặc thù (hệ y tế dự phòng) nên rất khó khăn về đội ngũ chuyên môn ATVSTP, cụ thể, trong tổng số 630 cán bộ mới chỉ có 122 bác sỹ (chiếm 19,36%), 480 cán bộ có trình độ đại học trở lên (chiếm 76,2%), còn lại 150 cán bộ có trình độ cao đẳng (chiếm 23,8%). Như vậy, trung bình mỗi Chi cục mới có 2 bác sỹ. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả làm việc tại tuyến tỉnh, đặc biệt trong công tác phòng, chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm, điều tra dịch tễ tìm nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm, thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm.
T×nh h×nh dÞch bÖnh diÔn biÕn phøc t¹p trªn nhiÒu ph¬ng diÖn, nhiÒu ®Þa ph¬ng trong c¶ níc. Hiện nay, các trường hợp tiêu chảy cấp do vi khuẩn tả xảy ra tản phát tại một số địa phương, trong khi đó một số nước trong khu vực vẫn tiếp tục ghi nhận bệnh nhân tả và diễn biến phức tạp, sự gia tăng giao lưu giữa các quốc gia, khu vực làm tăng nguy cơ dịch xâm nhập và bùng phát tại các địa phương trong cả nước. Dịch cúm A(H5N1) trên gia cầm tiếp tục ghi nhận tại nhiều địa phương, nguy cơ dịch lan rộng trong các đàn gia cầm và lây nhiễm sang người là rất cao. Dịch cúm A(H1N1) có xu hướng chững lại trong những tháng qua, số trường hợp mắc hội chứng cúm được phát hiện theo hệ thống giám sát cúm trọng điểm đã giảm, không có ổ dịch lớn xảy ra, chưa phát hiện sự biến đổi của vi rút cúm A(H1N1) tại Việt Nam. Tình hình sốt xuất huyết luôn diễn biến phức tạp và có xu hướng bùng phát thành dịch trong mùa mưa tới nếu không có các biện pháp phòng chống kịp thời và hiệu quả ngay từ đầu mùa dịch.Dịch tay chân miệng có nguy cơ gia tăng, đặc biệt tại các trường mầm non, mẫu giáo, các địa phương sau lũ lụt, các khu vực tập trung đông người, điều kiện vệ sinh môi trường kém.
Trong các đợt dịch này, Bộ Y tế cũng đã tiến hành các biện pháp mạnh nhằm khống chế vụ dịch. Tuy nhiên có những vấn đề nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngành y tế, như tình trạng ô nhiễm và mất vệ sinh môi trường, thói quen sử dụng thực phẩm và ăn uống không hợp vệ sinh của người dân, tình trạng không có nhà xí hợp vệ sinh ở các vùng nông thôn, thói quen sử dụng phân tươi trồng rau, sự chủ quan, "vô tư" của người dân đối với dịch bệnh,... Để giải quyết vấn đề này cần sự phối hợp liên ngành, đặc biệt là sự hợp tác tích cực của người dân trong việc phòng chống dịch bệnh cho bản thân, cho gia đình và cộng đồng. Nhiều hoạt động phòng chống dịch bệnh tiêu chảy cấp phải là do người dân thực hiện (như giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống), thì mới bảo đảm không bị mắc bệnh, dịch bệnh không lây lan và được dập tắt. Đặc biệt, do khó khăn về thiếu nhân lực y tế thuộc hệ thống y tế dự phòng, trang thiết bị không đầy đủ đã hạn chế cho công tác phòng chống dịch tại địa phương. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ y tế dự phòng còn nhiều bất cập, chưa thu hút được nhân lực làm việc ổn định lâu dài trong các đơn vị của hệ thống. Một số địa phương, chính quyền chưa thực sự quan tâm, chưa kịp thời đầu tư, hỗ trợ cho công tác phòng chống dịch bệnh. Việc thu thập thông tin về tình hình dịch bệnh tại khu vực của các quốc gia tiếp giáp biên giới với nước ta còn nhiều khó khăn nên còn bị động trong hoạt động phòng chống dịch bệnh xâm nhập vào Việt Nam.
Thực hiện Quy chế làm việc và Chương trình công tác của chính phủ
Thời gian qua, việc thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ đã có tác động tích cực đến toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước. Lề lối làm việc của Chính phủ ngày càng đi vào nề nếp, có hiệu quả. Sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo chương trình công tác, vừa toàn diện vừa có trọng tâm trọng điểm, xử lý kịp thời linh hoạt các tình huống. Quan hệ phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan Đảng, Quốc hội và các đoàn thể ngày càng được thực hiện có nề nếp hơn. Theo đó Bộ Y tế đã thực hiện đầy đủ quy chế làm việc của Chính phủ. Nhìn chung, các cơ chế điều hành của Chính phủ có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế. Công tác chỉ đạo của Chính phủ sâu sát, kịp thời, đáp ứng các yêu cầu cấp bách của xã hội, giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc của xã hội và các vấn đề nảy sinh khác.
Sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chính sách của Đảng và Chính phủ
Bộ Y tế đang phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương xây dựng dự thảo Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác an toàn vệ sinh thực phẩm trong tình hình mới, đã tổ chức Hội thảo xin ý kiến góp ý cho dự thảotại 3 miền Bắc,Trung, Nam. Chuẩn bị tiến hành kiểm tra, đánh giá sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 54-CT/TW về ”tăng cường lãnh đạo công tác phòng chống HIV/AIDS trong tình hình mới”. Đẩy mạnh việc tuyên truyền một số cơ chế, chính sách về y tế tại giao ban báo chí hàng tuần và giao ban lãnh đạo Ban hàng tháng.
Chương trình công tác 6 thángcuối năm 2010
Kiến nghị tập trung chỉ đạo trong 6 tháng cuối năm 2010
Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chương trình cải cách hành chính, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành của Chính phủ, đề nghị thực hiện một cách mạnh mẽ hơn việc cải tiến lề lối làm việc: phân định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và mỗi thành viên Chính phủ, đề cao trách nhiệm cá nhân; nâng cao chất lượng phiên họp Chính phủ; thực hiện mỗi việc chỉ do một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính; giải quyết tốt mối quan hệ phối hợp liên ngành, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, bảo đảm cho toàn bộ hệ thống hành chính vận hành thông suốt, hiệu quả hơn.Đề nghị Chính phủ đẩy nhanh tiến độ thông qua các đề án của ngành y tế còn tồn động nhiều năm để kịp thời triển khai thực hiện đáp ứng yêu cầu thực tế.
Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo và đầu tư cho lĩnh vực y dược cổ truyền, chỉ đạo sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành trong việc triển khai Chính sách quốc gia, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác phát triển nền y dược cổ truyền Việt Nam. Về công tác khoa học và phát triển công nghệ trong ngành y tế, cần tăng cường chất lượng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển ngành y tế; hoàn thiện công tác tiêu chuẩn,quy chuẩn kỹ thuật lĩnh vực y tế; duy trì và liên hệ với các điểm hỏi đáp trong toàn quốc và quốc tế đối với mạng lưới rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) ngành y tế.
Đề nghị Quốc hội sớm thông qua Luật An toàn thực phẩm, trong đó có Thanh tra chuyên ngành an toàn vệ sinh thực phẩm được tổ chức từ Trung ương đến huyện. Đồng thời, để triển khai có hiệu quả công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đề nghị các Bộ, ngành tăng cường phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là Ủy ban nhân dân các tỉnh chỉ đạo và hỗ trợ tích cực cho thanh tra chuyên ngành an toàn vệ sinh thực phẩm hoạt động có hiệu quả. Đầu tư vốn cho xây dựng, trang bị cho Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia và các labo khu vực, labo tại một số tỉnh trọng điểm và có cơ chế chính sách giữ nguyên mức 35% phụ cấp ưu đãi nghề (y tế dự phòng) để đảm bảo quyền lợi cho cán bộ làm việc tại Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm.
Đề nghị Chính phủ tăng tỷ lệ chi ngân sách hàng năm cho sự nghiệp y tế, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình quân của ngân sách nhà nước; dành ít nhất 30% ngân sách y tế cho y tế dự phòng và tiếp tục cho phép phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện, khu vực, Trạm Y tế xã, bệnh viện Lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn.
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành rà soát, sửa đổi bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật để đẩy nhanh việc thực hiện xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Triển khai thực hiện Đề án Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập; đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ toàn diện theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Tập trung đầu tư, nâng cấp các bệnh viện huyện, đa khoa khu vực liên huyện theo Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng; xây dựng, trình Thủ tướng phê duyệt Đề án đầu tư nâng cấp các bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi, khó khăn; các trạm y tế xã; các bệnh viện lao, tâm thần, nhi, ung bướu bằng nguồn trái phiếu Chính phủ; bước đầu xây dựng các trung tâm kiểm nghiệm đủ năng lực và điều kiện hoạt động theo Quyết định số 154/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng và Nghị định 79/2008/NĐ-CP của Chính phủ; tăng cường đầu tư, nâng cấp, củng cố hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng tuyến tỉnh, các trung tâm y tế dự phòng huyện...
Đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, ngành và các địa phương tích cực phối hợp với ngành y tế để kiểm tra, hướng dẫn các địa phương chủ động thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh nguy hiểm, đặc biệt là dịch cúm A (H1N1) và các bệnh dịch mùa hè khác.
Chủ trương, giải pháp hoàn thành nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2010 của Bộ Y tế
Về công tác khoa học và phát triển công nghệ trong ngành y tế, cần tăng cường chất lượng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển ngành y tế; hoàn thiện công tác tiêu chuẩn,quy chuẩn kỹ thuật lĩnh vực y tế; duy trì và liên hệ với các điểm hỏi đáp trong toàn quốc và quốc tế đối với mạng lưới rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) ngành y tế.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các cơ sở y tế từ trung ương đến địa phương theo Nghị định 188/2007/NĐ-CP; Nghị định 13; 14/2008/NĐ-CP về tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương; Nghị định 79/2008/NĐ-CP về hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác quản lý vắc xin, sinh phẩm y tế, phòng chống tai nạn thương tích. Tăng cường đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo nhân lực y tế; tăng chỉ tiêu tuyển sinh tối thiểu 30% so với 2008, đẩy mạnh đào tạo cử tuyển, theo địa chỉ, mở rộng các hình thức đào tạo nhằm bảo đảm nhân lực, số lượng, cơ cấu lao động cho các cơ sở y tế trong thời gian tới. Tiếp tục thực hiện Đề án 1816 của Bộ Y tế về việc luân phiên cán bộ y tế cho tuyến dưới.
Về công tác Dân số-Kế hoạch hoá gia đình, tiếp tục củng cố và ổn định tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo đủ mạnh để thực hiện các nhiệm vụ về DS-KHHGĐ. Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên trách các cấp, đặc biệt là Trạm Y tế xã, phường.
Đối với vốn đầu tư phát triển từ ngân sách địa phương: Đề nghị Chính phủ quan tâm và tiếp tục chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí vốn đầu tư cho y tế tăng và dành chi đầu tư phát triển từ ngân sách địa phương cho y tế để thực hiện Đề án nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa khu vực theo quy định tại mục d, khoản 5 Điều 2 của Quyết định số 225/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 4 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và bệnh viện đa khoa khu vực sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010 và Quyết định số 930/QĐ-TTg ngày 30/6/2009 của Thủ tướng Chớnh phủ về việc phờ duyệt Đề ỏn “Đầu tư xõy dựng, cải tạo, nõng cấp cỏc bệnh viện chuyờn khoa lao, thõm thần, ung bướu, chuyờn khoa Nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vựng miền nỳi, khú khăn sử dụng vốn trỏi phiếu Chớnh phủ và cỏc nguồn vốn hợp phỏp khỏc giai đoạn 2009-2013”.
Kiến nghị đổi mới, cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả, điều hành của Chính phủ
Về cơ bản việc phối hợp với các Bộ, ngành trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế được triển khai trong thời gian qua là tốt. Tuy nhiên, khó khăn nhất hiện nay là việc xin ý kiến của các Bộ ngành về văn bản, đề án trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ còn rất chậm, làm ảnh hưởng tiến độ hoàn thành đề án trình của Bộ Y tế. Bộ Y tế đề nghị:
Chính phủ chỉ đạo Lãnh đạo các Bộ, ngành tạo điều kiện về thời gian, phân công công việc phù hợp cho các cán bộ được giao nhiệm vụ phối hợp xây dựng và kiểm tra việc thực hiện các đề án của các Bộ, ngành có liên quan, nâng cao ý thức trách nhiệm của ngành đối với các nội dung tham gia phối hợp.
Bổ sung thêm nội dung quy định cụ thể về nguyên tắc hoạt động của Ban soạn thảo; các quy trình góp ý, thẩm định của các bộ, ngành liên quan vào Nghị định 161/2005/NĐ-CP để đảm bảo các đề án được góp ý đầy đủ, có chất lượng chuyên môn cao, đúng hạn, tránh tồn đọng đề án và kéo dài tiến độ xây dựng như hiện nay.