Bệnh do trùng bào tử Cryptosporidium sp. gây ra được gọi là Cryptosporidioses. Chúng phân bố ở nhiều nước trên thế giới và đây là một bệnh từ động vật lây sang người. Bệnh có tính chất lưu hành mạnh. Mặc dù tỷ lệ nhiễm Cryptosporidium sp. ở nước ta còn thấp nhưng hiện nay đang phải đối mặt với những điều hiện thuận lợi cho sự lan truyền bệnh do ngành chăn nuôi bò sữa phát triển với giống bò nhập khẩu từ nước ngoài và tỷ lệ bệnh nhân AIDS ngày càng gia tăng. Đây là thời cơ để cho các bệnh nhiễm trùng cơ hội xuất hiện, trong đó có loại trùng bào tử này.
Đặc điểm của bệnh
Bệnh Cryptosporidioses phân bố khá rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới. Tại Việt Nam, qua điều tra trên những trẻ em bị bệnh tiêu chảy ở cả miền Bắc và miền Nam ghi nhận tỷ lệ nhiễm trùng bào tử Cryptosporidium sp. khá cao. Loại trùng bào tử này có thể tấn công người có cơ địa suy giảm miễn dịch kể cả người khỏe mạnh, đặc biệt là đối với trẻ em; chúng cũng được phát hiện trên các bệnh nhân AIDS. Có thể nói đây là một bệnh ký sinh trùng cơ hội.
Theo đánh giá của Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 2-5% bệnh nhân AIDS bị tiêu chảy do nhiễm trùng bào tử Cryptosporidium sp. Một nhà khoa học khác cho rằng tỷ lệ này còn cao hơn nhiều, chiếm khoảng 11-41% tùy theo vùng. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh trên người khỏe mạnh, Cryptosporidium sp. đã gây ra các vụ dịch tiêu chảy lan truyền qua đường nước hoặc các sản phẩm được chế biến từ sữa bò. Tại Nhật Bản, vụ dịch tiêu chảy do loại trùng bào tử này cũng đã được xác minh. Các nước đang phát triển có tần suất mắc bệnh cao khoảng 8,5%, trong khi đó các nước nước phát triển chỉ chiếm khoảng 2,2%.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh-Việt Nam, một số nghiên cứu được thực hiện ở Bệnh viện Nhi Đồng I ghi nhận tỷ lệ nhiễm Cryptosporidium sp. ở trẻ em dưới 5 tuổi bị bệnh tiêu chảy cấp chiếm khoảng 2,9%; ở Trung tâm Bệnh Nhiệt đới xét nghiệm các mẫu phân của bệnh nhân tiêu chảy cho kết quả dương tính với loại trùng bào tử này có tỷ lệ 0,26%. Tuy vậy, một nhà khoa học khác đã điều tra trên trẻ em, người khỏe mạnh và cả trên bệnh nhân HIV/AIDS có tiêu chảy hay không tiêu chảy đều không phát hiện thấy Cryptosporidium sp. Gần đây điều tra tại huyện Củ Chi cho thấy tỷ lệ nhiễm Cryptosporidium sp. ở các nhân viên chăm sóc bò chiếm khoảng 3,5%; ở trẻ em dưới 5 tuổi bị tiêu chảy chiếm khoảng 3,8%. Thực tế cho đến nay, các nhà khoa học chưa có một cuộc điều tra đầy đủ để xác định tỷ lệ nhiễm và sự phân bố của loại ký sinh trùng này tại nước ta.
Trùng bào tử Cryptosporidium sp. gây bệnh chủ yếu cho các loại động vật có xương sống như bò, ngựa, cừu, khỉ, mèo, chó... Đặc biệt, bò là loại động vật với nguồn lây nhiễm quan trọng liên quan đến sự lan truyền bệnh cho con người. Ngoài ra, người có thể bị nhiễm loại trùng bào tử này do ăn phải rau, quả có mang kén hoặc nhiễm trực tiếp khi tiếp xúc với động vật là nguồn bệnh. Các động vật có vú và một số loài chim còn non yếu, mới sinh như bê, cừu non, lợn con... từ 1-3 tuần tuổi; đặc biệt là những con vật non không được bú sữa non của mẹ là nguồn động vật nguy hiểm có thể truyền Cryptosporidium sp. cho người.
Vai trò gây bệnh
Trong một thời gian dài, vai trò y học của trùng bào tử Cryptosporidium sp. không được quan tâm và đánh giá đứng mức. Loại trùng bào tử này thường ký sinh ở niêm mạc ruột đoạn hồi tràng và ở vị trí nông trên bề mặt. Chúng chỉ gây bệnh khi có sự nhiễm phối hợp các loại virus như Rotavirus, Corravirus... Lúc đó Cryptosporidium sp. trở nên độc tính và gây nên những rối loạn trầm trọng, nhất là đối với người bị suy giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng... Đây là những yếu tố thuận lợi tạo ra bệnh Cryptosporidioses.
Bệnh hay gặp ở ở những người có hệ thống lympho T bị suy giảm do nguyên nhân virus, những người bị bệnh AIDS, những người đồng tính luyến ái, trẻ em bị suy dinh dưỡng...
Bệnh cũng có thể xảy ra khi có sự nhiễm phối hợp với virus, khi ăn phải rau quả có nhiễm nang kén bào tử từ phân các loại động vật có kén. Điều này được giải thích đối với các trường hợp người không bao giờ tiếp xúc với động vật nhưng vẫn có thể bị mắc bệnh.
Ngoài thể bệnh thường gặp ở ruột, đã có một số thông báo các trường hợp biểu hiện bệnh lý ở đường hô hấp. Cryptosporidium sp. gây bệnh điển hình ở ruột có những triệu chứng sau đây:
- Ở người bình thường, chỉ biểu hiện triệu chứng lâm sàng nhẹ. Sau thời gian ủ bệnh từ 4-12 ngày, bệnh nhân có triệu chứng đi tiêu chảy mức độ vừa phải, sốt nhẹ hoặc không sốt; ít có biểu hiện đau bụng hoặc không đau bụng. Bệnh sẽ tự khỏi trong vòng từ 1-2 tuần.
- Ở người bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh, người mắc bệnh AIDS, trẻ em suy dinh dưỡng... Triệu chứng đi tiêu chảy xảy ra rầm rộ giống như mắc bệnh tả, bệnh nhân đi tiêu chảy khoảng từ 6-25 lần trong ngày; kéo dài trong nhiều tháng, thường có kèm theo đau bụng, sốt, mất nước, kém hấp thu chất dinh dưỡng, gầy còm... Có trường hợp còn phát hiện thấy viêm túi mật, viêm phổi...
Chẩn đoán và điều trị
Việc chẩn đoán bệnh dựa vào các biểu hiện triệu chứng lâm sàng thường không có giá trị. Chủ yếu căn cứ vào xét nghiệm phân tìm ký sinh trùng trong phân bằng các phương pháp nhuộm huỳnh quang Auramin hoặc nhuộm Ziell Nellsen cải tiến. Các phương pháp xét nghiệm soi tươi, nhuộm iode... thường khó phát hiện. Cũng có thể thực hiện xét nghiệm các bệnh phẩm khác như dịch tá tràng, dịch mật, dịch hút phế quản để giúp cho việc chẩn đoán xác định bệnh.
Việc điều trị bệnh do nhiễm trùng bào tử Cryptosporidium sp. hiện nay chưa có thuốc đặc hiệu. Một số nhà khoa học đã dùng thử thuốc kháng sinh spiramycine để điều trị cho thấy cũng có tác dụng nhưng chủ yếu vẫn là điều trị triệu chứng.
Khuyến nghị
Mặc dù bệnh do nhiễm trùng bào tử Cryptosporidium sp. gây tiêu chảy tại nước ta chưa được các nhà khoa học điều tra, nghiên cứu một cách có hệ thống để có thể xác định tỷ lệ mắc bệnh cụ thể và sự phân bố loại ký sinh trùng này theo vùng miền dịch tễ nhằm xây dựng kế hoạch phòng chống hiệu quả. Tuy nhiên ngoài bệnh này, các loại bệnh ký sinh trùng khác đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo là bệnh bị lãng quên; vì vậy các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực ký sinh trùng cần quan tâm đến vấn đề để góp phần trong nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người dân.