Việc tiêm phòng vaccine trong thời gian qua góp phần tích cực phòng ngừa một số bệnh lưu hành tại cộng đồng. Tuy vậy, trên thực tế đã xảy ra các trường hợp bị phản ứng đối với vaccine, thậm chí gây hậu quả tử vong do sốc phản vệ, đặc biệt là ở trẻ em. Vì vậy cần quan tâm đến vấn đề này khi sử dụng các loại vaccine phòng bệnh.
Điều cần thực hiện trước và sau khi tiêm vaccine
Vaccine có thể được bào chế từ vi khuẩn, virus hay độc tố của chúng hoặc được tái tổ hợp từ các kháng nguyên đặc hiệu. Trước và sau khi tiêm vaccine cần phải bảo đảm các quy trình cần thiết theo quy định.
Trước khi tiêm vaccine, cần thông báo chi tiết về các lợi ích khi sử dụng và nguy cơ khi không sử dụng vaccine; kiểm tra việc chuẩn bị để đối phó với những phản ứng phụ tức thời xảy ra như sốc phản vệ. Phải đọc kỹ các thông tin về sản phẩm vaccine, bảo đảm chắc chắn vaccine còn hạn sử dụng; đồng thời cung cấp cho cha mẹ hoặc người đi kèm các câu hỏi trước khi tiêm vaccine. Cần kiểm tra các chống chỉ định khi tiêm vaccine, họ tên cụ thể người được tiêm, đặc điểm sản phẩm vaccine và bảo đảm rằng vaccine vẫn được bảo quản tốt. Ngoài ra, việc tiêm vaccine phải thực hiện theo đúng kỹ thuật và đúng đối tượng.
Sau khi tiêm vaccine cần thực hiện ngay những việc cần thiết như nói cho cha mẹ hoặc người đi kèm biết về những phản ứng thông thường và những phản ứng nặng cần phải đưa ngay đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt để theo dõi, không được theo dõi ở nhà. Ngoài ra, sau khi tiêm vaccine cần ghi phiếu theo dõi tiêm chủng và hẹn rõ thời gian tiêm lần sau. |
Tiêm vaccine phòng bệnh cho trẻ em (ảnh internet minh họa) |
Phản ứng tức thời đối với vaccine
Sau khi tiêm vacine cần phải theo dõi chặt chẽ để chắc chắn người được tiêm vẫn khỏe mạnh và không bị phản ứng. Thông thường phải theo dõi ít nhất 15 phút sau khi tiêm vì hầu hết các tai biến nguy hiểm đến tính mạng xảy ra trong vòng 10 phút sau khi tiêm. Ở trẻ em, phản ứng nguy hiểm nhất là sốc phản vệ có nguy cơ dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện, can thiệp kịp thời. Biểu hiện của sốc phản vệ là cơn suy tuần hoàn cấp với các triệu chứng chân tay lạnh, mạch nhanh, huyết áp bị tụt hoặc kẹt; bị khó thở, co thắt thanh quản, co rút cơ thành bụng hay tiêu chảy, da xanh. Sau khi phát hiện tình trạng sốc phản vệ, cần đặt trẻ đã tiêm vaccine nằm nghiêng sang trái, tiêm ngay một mũi thuốc adrenaline liều 0,01 mg/kg trọng lượng vào bắp thịt. Người lớn có thể tiêm từ 0,5 đến 1 ml. Nếu không cải thiện có thể tiêm nhắc lại sau 10 phút, cho thở oxygen và nhanh chóng chuyển người bệnh đến bệnh viện nơi gần nhất để hồi sinh cấp cứu và theo dõi, xử trí tiếp tục.
 |
Xem kỹ hạn sử dụng vaccine trước khi tiêm (ảnh internet minh họa) |
Ở người lớn, phản ứng thường gặp sau khi tiêm vaccine là mệt mõi. Các cơn giảm trương lực cơ ít khi xảy ra sau khi tiêm vaccine, nếu có xảy ra phải sau từ 2 đến 4 giờ. Đối với những trường hợp có phản ứng nặng sau khi tiêm vaccine cần phải được theo dõi và xử trí tại các bệnh viện, không được để theo dõi tại nhà.
Ngoài phản ứng tức thời, các phản ứng phụ của vaccine cũng cần được thu thập, ghi nhận để báo cáo cho cơ quan có trách nhiệm mặc dù các vaccine thường được thử nghiệm về tính an toàn và hiệu lực trước khi được chỉ định sử dụng rộng rãi cũng như đã được đánh giá trên thực địa. Do đó việc giám sát và báo cáo các phản ứng phụ vẫn rất cần thiết. Bất cứ một phản ứng phụ nào của vaccine cũng cần được ghi nhận và báo cáo cho Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh để đơn vị này báo cáo cho những cơ quan có liên quan trách nhiệm ở tuyến trên. Các thông tin cần thu thập là họ tên, tuổi của đối tượng dùng vaccine; các trường hợp có phản ứng sốc phản vệ xảy ra trong vòng 48 giờ; các bệnh cảnh lâm sàng của người bệnh trong vòng 30 ngày sau khi tiêm vaccine như người bệnh bị viêm não do vaccine, bị co giật, viêm màng não vô khuẩn, giảm tiểu cầu, liệt cấp tính, chết hoặc bất kỳ biến cố nào có liên quan đến việc tiêm vaccine phải vào bệnh viện để điều trị.
Chú ý việc tiêm vaccine cho các nhóm đối tượng có nguy cơ đặc biệt
Đối với trẻ em đã có phản ứng mạnh với lần tiêm vaccine trước: Cần phải hết sức thận trọng khi tiêm vaccine ở những lần tiêm sau đó. Có thể các mũi tiêm phòng vaccine sau phải được thực hiện tiêm trong các bệnh viện để trẻ em được theo dõi tốt hơn và dễ dàng xử trí kịp thời khi có phản ứng nặng xảy ra.
Đối với những đối tượng có nguy cơ nhiểm khuẩn đặc biệt: Cần chú ý những trường hợp người bệnh bị mắc các bệnh như hen phế quản, bệnh tim hoặc phổi mãn tính; bị cắt lách, bị hội chứng Down, nhiễm HIV, trẻ con sinh thiếu tháng... vì rất dễ có nguy cơ bị phản ứng sau khi tiêm vaccine. Ở trẻ em, cần cân nhắc, xem xét và chỉ định tiêm vaccine một cách thận trọng. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo không nên sử dụng các loại vaccine sống như BCG, bại liệt uống, sởi cho những trẻ em bị nhiễm HIV; những trẻ con sinh thiếu tháng nên tiêm chủng vào tháng thứ hai sau khi sinh.
|
Cân nhắc việc tiêm vaccine phòng bệnh cho phụ nữ có thai (ảnh internet minh họa) |
Đối với phụ nữ có thai: Không nên dùng vaccine sống vì theo lý thuyết các loại vaccine này có thể hại cho thai nhi. Tuy vậy, trong bối cảnh tình hình người phụ nữ mang thai có nguy cơ bị phơi nhiễm nghiêm trọng đối với bệnh sởi hoặc sốt vàng thì có thể vẫn được tiêm phòng. Chưa có bằng chứng nào xác định về vaccine chống bệnh rubella có thể gây quái thai nhưng các nhà khoa học đều khuyên rằng phụ nữ chỉ nên có thai sau khi đã tiêm vaccine này được 2 tháng.
Đối với phụ nữ đang cho con bú: Không có bằng chứng nào xác định về sự nguy hiểm đối với trẻ con còn bú mẹ khi người mẹ được tiêm vaccine.
Đối với trẻ con sinh thiếu tháng: Việc tiêm vaccine cũng thực hiện tương tự như trẻ con sinh đủ tháng vì việc đáp ứng miễn dịch ở những trẻ con sinh thiếu tháng vẫn bảo đảm đầy đủ. Tuy vậy, để tránh khả năng có thể lây bệnh cho người khác, việc sử dụng vaccine Sabin chỉ nên dùng khi trẻ con đã được xuất viện. Một số trường hợp trẻ con sinh thiếu tháng có đáp ứng miễn dịch với vaccine viêm gan B và Hib kém hơn trẻ con sinh đủ tháng nên việc tiêm vaccine phòng viêm gan B cho những trẻ con sinh thiếu tháng được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất tiêm liều đầu tiên ngay lúc mới sinh, sau đó tiêm nhắc lại sau 1 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Cách thứ hai là đợi cho trẻ nhỏ đến đủ 2 tháng tuổi, tiêm 3 mũi tiêm cơ bản vào lúc 2 tháng, 3 tháng và 8 tháng tuổi. Nếu trẻ con sinh ra từ người mẹ bị viêm gan B thì chọn cách thứ nhất, đồng thời tiêm luôn cho trẻ globulin miễn dịch. Đối với vaccine Hib có thể tiêm cho trẻ con sinh thiếu tháng vào lúc 2 tháng, 4 tháng, 6 tháng và 12 tháng tuổi.
Đối với người có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp: Cần sử dụng vaccine tiêm phòng một số bệnh có liên quan đến việc lây truyền như những người chăm sóc trẻ cần tiêm nhắc lại thường xuyên vaccine phòng bệnh bạch hầu, uốn ván cũng như quai bị, sởi, rubella, viêm gan A; các nhân viên y tế và nhân viên phòng xét nghiệm cần được tiêm phòng viêm gan B, viêm gan A, sởi, quai bị, rubella; những người làm công tác thú y cần được tiêm các loại vaccine phòng các bệnh truyền từ gia súc, gia cầm sang người; những nhà vi sinh vật học cần được tiêm vaccine phòng bệnh viêm gan A, viêm gan B, thương hàn, viêm não Nhật Bản, nhiễm não mô cầu, dịch hạch...
Khuyến nghị
Hiện nay các loại vaccine phòng một số bệnh phổ biến trong cộng đồng được sử dụng một cách rộng rãi trong công tác y tế dự phòng để bảo vệ sức khỏe người dân và mang lại nhiều hiệu quả được khẳng định. Tuy vậy trên thực tế đã xảy ra một số trường hợp người dùng bị phản ứng không mong muốn đối với vaccine sử dụng, đặc biệt là tình trạng sốc phản vệ ở trẻ em sau khi tiêm vaccine gây hậu quả tử vong. Vấn đề này cần được các cơ sở y tế đặc biệt quan tâm, tuân thủ các quy trình quy định, thận trọng khi sàng lọc đối tượng để loại trừ các trường hợp chống chỉ định sử dụng vaccine, bảo đảm an toàn cho việc tiêm chủng, nhất là đối tượng trẻ em nhằm giảm thiểu tình trạng nguy cơ sốc phản vệ dẫn đến tử vong.