Vaccine phòng bệnh sốt rét-niềm hy vọng của nhân loại
Theo tin từ New York, các nhà nghiên cứu cho ra một loại vaccine có thể là đầu tiên trên thế giới đưa ra để phòng bệnh sốt rét đầy hứa hẹn cho trẻ em châu Phi, được xem là “bước đột phá quan trọng”. Trong các thử nghiệm đầu tiên của loại vaccine này thực hiện cho thấy có hiệu quả trên 50% trong việc ngăn ngừa số tử vong ở trẻ em lớn và các trẻ em trong độ tuổi đi chập chửng (toddlers) ở 2 quốc gia châu Phi. Một thử nghiệm quy mô lớn hơn và kéo dài hơn sẽ bắt đầu vào năm tới. Đó là những loại vaccine đầu tiên được thử nghiệm trên người thành công, có thể đưa ra thị trường vào năm 2011 và loại vaccine này được nghiên cứu bởi tập đoàn dược phẩm nổi tiếng British-based GlaxoSmithKline PLC. Kết quả thử nghiệm này đã tạo niềm tin chúng ta gần hơn về một tương lai không xa rằng vaccine phòng sốt rét đến với trẻ em châu Phi. Một nhóm đối tác phi lợi nhuận đã bắt đầu với tài trợ từ quỹ Bill and Melinda Gates Foundation để hỗ trợ phát triển vaccine sốt rét và phải đảm bảo rằng nó phải có sẵn nếu nơi nào cần.
Một công trình nghiên cứu vaccine sốt rét khác cũng đã công bố kết quả đầy hứa hẹn, kết quả được đăng tải trên tạp chí New England Journal of Medicine tiết lộ những kết quả tốt đẹp của một vaccin ứng viên, được trắc nghiệm qua 2 nghiên cứu lâm sàng ở Tanzanie và Kenya. “Trên khoảng 250 triệu trường hợp sốt rét được ghi nhận năm 2006, trong đó 1 triệu trường hợp tử vong, phần lớn xảy ra nơi các trẻ em dưới 5 tuổi của vùng châu Phi”, báo cáo năm 2008 của OMS đã chỉ rõ như vậy. Những con số báo động này chẳng bao lâu nữa có thể được hạ xuống nhờ những cố gắng đuợc thực hiện nhằm chế tạo một vaccin chống lại bệnh sốt rét.
Sau 70 năm nghiên cứu, bế tắc, thất bại và thất vọng trước ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, đáng sợ và không hiểu thấu, những kết quả thử nghiệm cuối cùng của một vaccin ứng viên nơi các nhũ nhi và các trẻ em khiến có thể nghĩ rằng có lẽ chúng ta đang trên đường thẳng cuối cùng. Vaccin này, nhằm chống lại một cách đặc hiệu 4 ký sinh trùng gây bệnh nơi người (Plasmodium falciparum), là một phân tử tổng hợp. Được tiêm vào trong cơ thể, vaccin làm phát khởi sự sản xuất các kháng thể chống lại một protéine bề mặt của ký sinh trùng trẻ trước khi ký sinh trùng này xâm chiếm lá gan. Hai thử nghiệm độc lập mới của cùng vaccin đã được công bố đồng thời hôm qua trên site Internet của New England Journal of Medicine : những thử nghiệm này cũng báo cáo một sự bảo vệ đáng kể chống lại bệnh sốt rét nơi những người được tiêm chủng. Từ năm 2004, vaccin ứng viên này, kết quả của một sự cộng tác giữa GlaxoSmithKline và cơ quan Path của Hoa Kỳ, đã có nhiều thành công. Vào tháng 10 năm 2004, một dạng đầu tiên của vaccin (được đặt tên là RTS, S/AS) đã là đối tượng, trong The Lancet, của một thử nghiệm lâm sàng trẻ em ở Mozambique trên 2000 trẻ em từ 1 đến 4 tuổi. Vaccin RTS, S/AS này đã được phát minh, phát triển và chế tạo bởi các phòng thí nghiệm GSK Biologicals ở Bỉ (Rixensart) vào cuối những năm 1980. Gần 30% các người được tiêm chủng, sự xuất hiện của một cơn sốt rét đầu tiên được làm chậm hay ngừng lại, và sự hiện diện của ký sinh trùng trong máu là 37% thấp hơn so với nhóm đã nhận một placebo. Một năm sau, một nghiên cứu theo dõi, cũng được công bố trên The Lancet, cho thấy rằng, sau 21 tháng, đa số trong 2000 trẻ em được tiêm chủng đã có những nồng độ quan trọng trong máu của những kháng thể được sinh ra bởi vaccin và một hiệu quả tiêm chủng đạt 28%. Hai công trình nghiên cứu mà New England công bố hôm qua, một được thực hiện trên 340 nhũ nhi ở Tanzanie, và một trên 894 em bé từ 5-17 tháng ở Kenya và Tanzanie. Như William Collins đã nhắc lại trong một bài xã luận của New England rằng làm những thử nghiệm về tính hiệu quả và độ an toàn của một vaccin trên các em bé là công việc rất khẩn cấp, bởi vì đại đa số trong số từ 1 đến 3 triệu tử vong mỗi năm vì sốt rét đều xảy ra trước 5 tuổi. Trong thử nghiệm trên các trẻ sơ sinh, được thực hiện bởi BS Salim Abdulla (Ilfakara Health Institute Tanznia), vaccin RTS, S/AS đã được chích nơi các nhũ nhi, 3 liều vào 8, 12 và 16 tuần, cùng với những vaccin khác của chương trình tiêm chủng mở rộng. Vaccin ứng viên chống sốt rét đã không cho thấy tác dụng chồng chéo với những vaccin khác được cho đồng thời. Thật vậy, những đáp ứng miễn dịch bảo vệ được sinh ra bởi các kháng nguyên của bệnh bạch hầu, bệnh uốn ván, bệnh ho gà và Hemophilus influenza B cũng vẫn có hiệu quả khi những kháng nguyên này được chích với RTS, S/AS. Vaccin RTS, S/AS không những an toàn mà còn làm giảm 65% nguy cơ bị một cơn sốt rét đầu tiên trong nhóm được tiêm chủng.
Nghiên cứu lâm sàng được thực hiện trên 894 em bé ở Tanzania và Kenya để đánh giá độ an toàn và tính hiệu quả của một dạng hơi bị biến đổi của vaccin: RTS, S/AS 01. Dạng vaccin này được phối hợp với một hệ những chất hỗ trợ khác, những chất được thêm vào vaccin để làm tăng cường tác dụng của nó. Các kết quả của những trắc nghiệm này đã cho thấy rằng RTS/AS01 đã làm giảm 53% số các cơn sốt rét trong một thời kỳ theo dõi 8 tháng. Những kết quả của một thử nghiệm một dạng vaccin khác năm 2007 đã không vượt quá tỷ lệ 37% giảm nguy cơ. Do những kết quả tốt thu được trong những công trình nghiên cứu giai đoạn 2 này, một nghiên cứu giai đoạn 3 trên một số lượng người tình nguyện lớn hơn theo dự kiến sẽ được bắt đầu trong một tương lai gần.
Những nổ lực mới cho điều trị và sử dụng vaccine phòng bệnh
Theo thông tin từ New York vào ngày 08.10.2008 cho biết trong một nghiên cứu nhằm đến vấn đề dịch bệnh toàn cầu, một nhóm các nhà khoa học khắp thế giới đã giải mã di truyền loài ký sinh trùng P.falciparum gây ra 40% trong số 515 triệu ca sốt rét mỗi năm trên thế giới.
Dẫn đầu nhóm các nàh ký sinh trùng là nhà ký sinh trùng đến từ NYU Langone Medical Center, tiến sĩ Jane Carlton và 40 nhà nghiên cứu đã giải trình tự loài Plasmodium vivax (P. vivax), một trong 4 loài ký sinh trùng thường gây bệnh cho người. P. vivax, hiện đang gia tăng kháng thuốc với một số loại thuốc sốt rét, đây cũng là loài hay gặp ngoài châu Phi, đặc biệt châu Á, châu mỹ và Mỹ-các vùng chỉ gây thành dịch rải rác. Sốt rét do P.vivax được biết nguy hiểm cũng không kém gì loài P.falciparum nên cũng rất khó loại trừ. Sốt rét P.vivax thường truyền bệnh vào điều kiện khí hậu có nhiệt độ mát hơn. Giai đoạn thể ngủ có thể khiến ký sinh trùng trổi dậy khi thời tiết ấm lên chăng, gây ra hiện tượng tái phát, có thể vài tháng hoặc nhiều năm sau đó có thể.
Một số triệu chứng đối với 2 chủng ký sinh trùng này là giống nhau cũng là giống cúm, sốt, đau bụng, thiếu máu,…nhưng cơn sốt khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã xác định một vài con đường trong ký sinh trùng P. vivax có thể là đích tác dụng của thuốc điều trị. CảP. vivax và P. falciparum đều đang được nghiên cứu về tiềm năng sản xuất vaccine (như đã đề cập ở trên). Các chuyên gia cho rằng ký sinh trùng P.vivax dù đã tồn lại lâu nhưng ít được quan tâm nghiên cứu, ít được hiểu biết chi tiết. Sự lãng quên đó chính là do lâu nay tập trung nghiên cứu vào loài P.falciparum gây chết người. P. vivax hiếm khi gây chết và cũng vì loài này không thể phát triển trong môi trường phòng thí nghiệm. Ngoài ra, phát triển nghiên cứu P.vivax cũng chính là góp phần phòng chống cho P.falciparum khi 2 loài này cùng tồn tại trong nhiều vùng. .
Ngoài ra, dự án về giải mã di truyền cũng đã thực hiện được 6 năm do các nhà khoa học đến từ Anh, Tây Ban Nha, Úc, Brazilas và Mỹ. Sau hai năm, ngân quỹ vẫn còn từ dự án giải mã bộ gen của P. falciparum và quỹ Burroughs Wellcome Fund cũng như từ National Institutes of Health cho phép tiến hành. P. vivax là loài ký sinh trùng thứ 2 gây bệnh cho người đã được giải mã. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy sự khác biệt đáng kể tùe bộ gen P. vivax so với bộ gen của 3 loài còn lại. khác cả về nội dung, cấu trúc và tính phức tạp của bộ gen. Bước tiếp theo là giải trình tự của 6 bộ gen P.vivax khác từ Brazil, Mauritania, Ấn Độ, bắc Triều Tiên và Indonesia để xác định làm nền tảng cho một ứng cử viên vaccine mới.
Dự án này là một sự góp phần cho nghiên cứu lâu dài với loại ký sinh trùng sốt rét P.vivax ở cộng đồng. Tác giả M. Carlton, một giáo sư của trường NYU, khoaký sinh trùng y học, người dẫn đầu các nhà điều tra trên khắp thế giới, dự kiến sẽ huy động rất nhiều nhà sốt rét học để tập trung nghiên cứu sâu chủng ký sinh trùng từ lâu đã bị lãng quên. Hiện đã có sẵn dữ liệu về bộ gen-đây là một tiềm năng lớn để thúc đẩy qui trình tạo ra loại vaccine mới cũng như nghiên cứu điều trị chống lại tác nhân gây bệnh này. Tiến sĩ Claire Fraser-Liggett- giám đốc Viện khoa học di truyền của đại học Maryland và nguyên chủ tịch Viện nghiên cứu di truyền Istitute for Genomic Research, Rockville Maryland-nơi bắt đầu triển khai dự án. Việc giải trình tự bộ gen Plasmodium vivax là một trong những bước ngoặc lớn cho lĩnh vực sinh học ký sinh trùng và cuộc chiến chống sốt rét. Đó là lời nhận xét của giáo sư Nick White đang làm việc tại khoa y học nhiệt đới, đại học Oxford,Anh quốc và đại học Mahidol, Thái Lan.
2 loại thuốc sốt rét mới từ hãng dược phẩm GSK: Dacart và Lapdap
Sốt rét vẫn còn là gánh nặng hằng năm giết chết gần 1 triệu người trên toàn thế giới, chủ yếu là đối tượng trẻ em và phụ nữ mang thai. Nhu cầu cần một loại thuốc sốt rét mới để điều trị bệnh khi sự kháng thuốc với các thuốc cũ lan rộng. Hãng dược phẩm GSK và tổ chức Medicines for Malaria Venture (MMV) đang làm việc với nhau liên quan đến một số dự án phát minh thuốc mới. 2 đối tác này gần đây đã thu thập và ghi nhận nhiều dữ liệu về các thử nghiệm lâm sàng Phase III đánh giá một số thuốc ACTs, trong đó có loại mới là Dacart , đây là một thuốc phối hợp liều gồm chloproguanil,dapsone và artesunate, hiện đang triển khai thử nghiệm lâm sàng.
Thử nghiệm đầu tiên được thiết kế nghiên cứu đánh giá hiệu lực của Dacart so sánh vớiCoartem™ (artemether–lumefantrine), và thuốc Coartem hiện đang dùng như “first-line antimalarial therapy” ở một số vùng lưu hành sốt rét của các quốc gia. Nghiên cứu trên 1372 bệnh nhân cho kết quả hiệu lực điều trị có hiệu lực 94% theo liệu trình theo dõi 28 ngày (đối với Dacart) so sánh với hiệu lực 97% (đối với Coartem). Tuy nhiên, dù hiệu lực của Dacart rất cao, nhưng nồng độ Hb lại giảm trong máu của bệnh nhân thiếu men glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) dùng Dacart lại lớn hơn so với Coartem. Giảm Hb có thể dẫn đến thiếu máu, trong một số trường hợp nặng phải truyền máu. Thiếu G6PD là một rối loạn enzyme di truyền, ước tính khoảng 10-255 quần thể ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi mắc phải. Thiếu men G6PD có tầm quan trọng đối với chức năng bình thường của hồng cầu và việc thiếu enzyme này trên một số cá nhân có thể chỉ được phát hiện khi xét nghiệm máu, trong khi điều này lại không được thực hành thường quy tại châu Phi, nên sẽ rất khó khăn;
Thử nghiệm thứ 2 trên 892 bệnh nhân được thiết kế nghiên cứu đánh giá so sánh hiệu lực Dacart với Lapdap (chlorproguanil+dapsone)- một sản phẩm khác của hãng GSK được ra đời có sự hợp tác của WHO, Bộ ngoại giao Anh. Kết quả cho thấy đều có sự giảm nồng độ Hb trên các bênhnhân thiếu men G6PD trên cả nhóm dùng Dacart và Lapdap;
Về cơ bản các số liệu trên, GSK và MMV đã quyết định chấm dứt không phát triển thêm về thuốc Dacart. GSK cũng đã bắt đầu một sản phẩm khác tại các quầy dược của Kenya đó là Lapdap- đây là sản phẩm đã tung ra trên thị trường thời gian qua. Tiến sĩ Arata Kochi, giám đốc chương trình phòng chống sốt rét toàn cầu của WHO (Global Malaria Programme, WHO) bày tỏ rằng GSK đang hành động vì trách nhiệm để rút Lapdap khỏi thị trường và tiếp tục phát triển nhiều nghiên cứu thuốc mới thêm nữa dựa trên hợp chất này. WHO nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết hiện tại cần có để can thiepẹ vào cuộc chiến chống sốt rét, nên các nhà đầu tư và các hãng dược được khuyến khích tham gia. Do vậy, GSK tham gia với vai trò đối tác rất quan trọng cùng với MMV và nhiệt liệt chúc mừng mời các đối tác tham gia tiếp tục vào các công trình nghiên cứu trong tương lai.
Cả 2 thử nghiệm Phase III được tiến hành ở châu Phi với sự có mặt của các nhà điều tra chính châu Phi và tập trung nghiên cứu la bô tại các các phòng thí nghiệm đạt chuẩn chất lượng cao nhất châu Phi. Dữ liệu nghiên cứu lâm sàng càng có chất lượng coa thì càng tốt cho bệnh nhân, các hồ sơ về Hb đều được sử dụng để đánh giá hiệu lực thuốc Dacart và Lapdap trên bệnh nhân sốt rét và điều đó rất có lợi để áp dụng cho phạm vi cộng đồng. GSK và MMV cùng đồng hành trong chương trình hợp tác nghiên cứu thuốc mới. Về phía công ty GlaxoSmithKline
thì đây là một trong những tập đoàn dược phẩm lớn nhất thế giới sẽ cùng nhau để nâng cao và chăm sóc sức khỏe, nhân loại nâng chất lượng sống và kéo dài tuổi thọ. Trong khi đó, phía MMV cho rằng gánh nặng sốt rét vẫn còn đó, với tư cách là một tổ chức phi lợi nhuận tham gia vào việc nghiên cứu, khám phá, phân phối thuốc an toàn hiệu quả, hợp lý thông qua mạng lưới liên thông y tế tư nhân và y tế nhà nước. Sau 7 năm hoạt động, MMV đã tham gia gần 40 dự án khác nhau về nghiên cứu thuốc mới. Mục đích của tổ chức MMV hiện tại là đăng ký được ít nhất một thuốc sốt rét mới trước năm 2010 và duy trì các thành quả bền vững để đáp ứng nhau cầu cho 3.2 tỷ người đang có thể nguy cơ chết vì bệnh này.
Thông tin cập nhật về cung cấp thuốc sốt rét trên thế giới
Theo thông tin Pharmaceutical News ra ngày 8 tháng 11, Tổ chức y tế thế giới (WHO-World Health Organization) thông báo về thuốc phối hợp thuốc artemether + lumefantrine, đây là một thuốc phối hợp ACTs, sử dụng trong điều trị sốt rét từ tháng 11 năm 2004 đến tháng 3 năm 2005. Dựa trên các thông tin cung cấp của Novartis gần đây đến WHO, thiếu thuốc vẫn còn đợi đến sau tháng 3. Lý do vẫn là thiếu nguyên liệu thô để sản xuất thuốc. Novartis đã thông báo WHO rằng sự sản xuất artemether + lumefantrine phải lệ thuộc nhiều vào thời điểm phân phối cả artemisinin (một nguyên liệu thô chiết suất từ cây thanh hao hoa vàng) và dẫn suất của nó artemether do các nhà cung cấp từ Trung Quốc.
ACTs hiện đang là các thuốc dẫn đầu về hiệu lực hiện nay trong điều trị sốt rét do P.falciparum; artemether + lumefantrine chỉ là dạng thuốc phối hợp liều cũng đang sẵn có (FDF_fixed-dose form) dạng 2 loại thuốc trong một viên thuốc. Thuốc sốt rét được sản xuất từ công ty dược phẩm Novartis có tên thương mại Coartem, được chấp nhận vào năm 2001, Novartis cung cấp artemether+lumefantrine cho WHO với giá ưu đãi cho các hệ thống y tế công cộng ở những nơi sốt rét đang hoàn hoành. 40 quốc gia (trong đó 20 thuộc châu Phi) đã chính thức sử dụng ACTs trong điều trị sốt rét năm 2001. 20 quốc gia đó đã chấp nhận dùng artemether+lumefantrine như liệu trình điều trị “first- or second-line treatment”.
Novartis cũng đã thông báo cho WHO mặc dù sản phẩm từ công ty và vẫn đang tiếp tục đầutư song vì nhu cầu dùng artemether+lumefantrine lớn với 5 triệu liều điều trị / tháng thì nguyên liệu thô khó đáp ứng kịp. Novartis cho biết dẫn suất artemisinin về mặt số lượng thì đủ để sản xuất ra 60 triệu liều điều trị. Tuy nhiên, đến lúc nào đó cũng sẽ cạn kiệt nguồn nghuyên liệu thô, công ty ước tính khoảng 30 triệu liều điều trị vào năm 2005 và ½ số lượng còn lại sẽ được sản xuất nốt vào cuối năm. 30 triệu liều này đủ ½ lượng thuốc mà WHO mong đợi trong năm 2005.
WHO cũng đang hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các quốc gia đang đối mặt với sự thiếu artemether + lumefantrine. Người ta cũng khuyên các quốc gia nên có lập kế hoạch đặt hàng và nhu cầu hàng năm về artemether+lumefantrine. Các đối tác Roll Back Malaria bao gồm WHO đang từng bước nâng cao các biện pháp phòng chống sốt rét, trong đó cả phòng chống vector và cung cấp màn tẩm hóa chất.
Báo cáo về độc tính của thuốc sốt rét
Độc tính của thuốc được tổng hợp dựa trên các thử nghiệm kiểm chứng và giám sát lâm sàng trong điều trị và phòng bệnh sốt rét. Trong điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum, đây làloại sốt rét có tỷ lệ tử vong cao nếu không điều trị, và vì thế các nguy cơ phản ứng phụ đối với các thuốc sốt rét là rất lớn. Vì chloroquine đang trở nên kháng lan rộng, các thuốc khác có thể sử dụng thay thế trong điều trị. Tuy nhiên, độc tính của các loại thuốc này cũng nên được cân nhắc. Quinine hiện vẫn đang dùng để điều trị sốt rét nặng do độc tính trên hệ tim mạch và thần kinh trung ương hiếm, nhưng tác động gây hạ đường huyết của nó lại là vấn đề cần bàn. Mefloquine gây ra hiệu ứng có hại trên tâm thần kinh nếu dùng quá liều và Pyrimethamine-dapsone có độc tính gây giảm bạch cầu hạt, đặc biệt nếu vượt liều khuyến cáo.Pyrimethamine-sulfadoxine và amodiaquine có thể gây ra một số ca tử vong tiềm tàng, nhất là trong thời gian dùng thuốc kéo dài cho dự phòng. Atovaquone/proguanil là một thuốc sốt rét phối hợp có hiệu lực cao, dung nạp tốt cả trong điều trị lẫn dự phòng. Dẫn suất artemisinin có hiệu lực rất cao và đưa ra các bằng chứng an toàn tuyệt vời. Việc kê toa cho phụ nữ mang thai bị sốt rét do các thầy thuốc lâm sàng là một vấn đề vì cáng cân lợi ích-nguy cơ vẫn chưa rõ ràng.
Tài liệu tham khảo chính
1.Zuckerman JN, et al. Rapid protection against hepatitis A and B following accelerated schedule of a combined hepatitis A/B vaccine (abstract). Antiviral Ther. 2000;5(suppl 1):8.
2.Kallinowski B, et al. Can monovalent hepatitis A and B vaccines be replaced by a combined hepatitis A/B vaccine during the primary immunization course? Vaccine. 2000;19:16-22.
3.Centers for Disease Control and Prevention. CDC Surveillance Summaries, December 7, 2001. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 2001;50(No.SS-5).
4.Shanks GD, et al. Efficacy and safety of atovaquone/proguanil as suppressive prophylaxis for Plasmodium falciparum malaria. Clin Infect Dis. 1998;27:494-499.
5.Sukwa TY, et al. A randomized, double blind, placebo-controlled field trial to determine the efficacy and safety of Malarone (atovaquone/proguanil) for the prophylaxis of malaria in Zambia. Am J Trop Med Hygiene. 1999;60:521-525.
6.Hogh B, et al. Atovaquone-proguanil versus chloroquine-proguanil for malaria prophylaxis in nonimmune travelers: A randomized, double blind study. Lancet. 2000;356:1888-1894.
7.Overbosch D, et al. Atovaquone-proguanil versus mefloquine for malaria prophylaxis in nonimmune travelers: Results from a randomized double blind study. Clin Infect Dis. 2001;3:1015-1021.
8.Thông tin về công ty GlaxoSmithKline: http:// www.gsk.com.
9.Thông tin về MMV: http://www.mmv.org
10.Issues of malaria. 2008
11.http://mosquito.who.int/malariacontrol
12.http://www.malariasite.com/
13.http://jimbocyberdoc.wordpress.com/2008
14.http://www.gsk.com/media/pressreleases/2008
15.http://www.malariajournal.com
16.http://www.who.int.