Sốt rét (SR) là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao nhất trên toàn cầu và là vấn đề y tế công cộng quan trọng, khẩn cấp đầu tư để khống chế căn bệnh này.SR có thể có bất kỳ người nào phơi nhiễm, song đáng chú ý nhất là cơ địa đặc biệt SR trên phụ nữ mang thai.
Phụ nữ rất nhạy cảm với bệnh SR, đặc biệt là do Plasmodium falciparum trong thời kỳ mang thai, lý do đã được một số nghiên cứu trước đây lý giải rằng khi người phụ nữ mang thai (PNCT) có lượng CO2 và độ ẩm cũng như mùi thích hợp và “hấp dẫn và quyến rũ” muỗi SR (http://www.malaria.farch.net). Những phụ nữ này, khi sống trong vùng LHSR thường có thiếu máu nặng ,mà đây là một vấn đề thường ít đuwocj quan tâm trong Chương trình Bảo vệ bà mẹ và trẻ em. May thay, họ có miễn dịch rất cao, nên hầu hết các giai đoạn bệnh chỉ thoáng qua. Nhưng tính miễn dịch này không có ở thai nhi vì các dạng sulphate chondroitine có liên kết A của KSTSR (không tìm thấy ở những người không mang thai, gây ra thiểu năng nhau thai và tỷ lệ tử vong cao trong số 3,5 triệu trẻ sinh ra thiếu cân ở vùng Nam Sahara mỗi năm. Điều rõ ràng là sinh mạng trẻ em trong số đó có thể cứu được nếu tất cả các PNCT trong vùng LHSR đều được uống thuốc phòng SR, song đáng tiếc điều này ít được tiến hành vì nhiều lẽ tại các mạng lưới y tế , nhất là y tế cơ sở.
Việc dùng màn đã tẩm thuốc diệt muỗi có tác dụng làm giảm tỷ lệ mắc SR ở trẻ em, nhưng lại có tác dụng rất ít cho các bà mẹ và càng ít tác dụng đến ảnh hưởng trên nhau thai ở PNCT lần đầu có 3 công trình nghiên cứu được thực hiện ở Kenya và Malawi cho thấy chỉ cần hai lần uống thuốc Pyrimethamin/ Sulfadoxine trong thời gian mang thai đã làm giảm đáng kể hiện tượng thiếu máu trên người mẹ, giảm được lượng KSTSR trong máu ngoại vi và nhau thai; đồng thời tránh được tình trạng trẻ sinh ra thiếu cân. Cách dự phòng này đơn giản hơn các biện pháp trước đây bằng chloroquin, dùng hàng tuần. Kết quả của 2 công trình nghiên cứu này được Tổ chức Y tế thế giới đề nghị. Việc dùng dự phòng Pyrimethamin/ Sulfadoxine nhắc lại nhiều lần được khuyến khích cho PNCT khi họ có nguy cơ nhiễm bệnh cao. Theo dõi chặt chẽ khi sự truyền bệnh do P.falciparum xảy ra từng đợt, không đều và đặc biệt khi phụ nữ có miễn dịch thấp.
Do kết quả tuyệt vời của 3 công trình nghiên cứu tiến hành trên thực địa, OMS cùng khó đưa ra những khuyến nghị khác nữa. Việc chấp nhận bản hướng dẫn này đòi hỏi cấp bách là phải phân ra chủng P.falciparum kháng Pyrimethamin/ Sulfadoxine. Nếu những kinh nghiệm ở Đông Nam á lập lại ở châu Phi, thì việc phổ biến rộng rãi tính kháng với loại thuốc này sẽ xuất hiện và trở thành phổ biến trong vài năm tới. Điều này sẽ là một tai họa vì đến nay chưa cóthuốc mới mà có công hiệu tương đương. Chiến lược này là cách tiếp cận theo con đường miễn dịch học dự phòng SR cho các bà mẹ. Người thấy rằng qua nhiều đợt mang thai, các kháng thể kháng kết dính chống lại sulphate chondroitin có liên kết A của KSTSR sẽ tăng lên, và sự nhạy cảm với PNCT lần đầu là do thiếu cơ chế bảo vệ tự nhiên này. Những phát hiện này đã làm chúng ta tin vào khả năng tạo ra một thế hệ vaccine kháng kết dính để dùng cho phụ nữ trước khi mang thai lần đầu, vaccine này sẽ bảo vệ hữu hiệu chống lại nhiễm KSTSR ở nhau thai. Trong những vùng SRLH nặng và vừa, phần lớn phụ nữ có thai có miễn dịch đầy đủ, thậm chí suốt thời kỳ mang thai, nên khi nhiễm P.falciparum thường không bị sốt cao và các triệu chứng khác cũng nhẹ nhàng hơn. Trong các khu vực này, tác động chính của SR có liên quan đến thiếu máu do SR ở các bà mẹ và xuất hiện KSTSR trong nhau thai. Sự suy yếu thai nhi do suy dinh dưỡng, đưa đến suy giảm cân nặng thai nhi khi sinh ra và sự phát triển kém của trẻ trong các giai đoạn tiếp theo.
Trong một số khu vực ở châu Phi, vùng lan truyền SR ổn định, nhiễm P.falciparum trong suốt thời gian mang thai được đánh giá là gây ra cái chết rất cao, trên 10.000 bà mẹ mỗi năm với khoảng 8-14% trẻ sơ sinh thiếu cân nặng và 3-8% trẻ em tử vong.
Việc điều trị SR cho phụ nữ mang thai còn nhiều tranh cãi và có nhiều trường phái dùng thuốc khác nhau, tùy thuộc vùng lưu hành SR có kháng thuốc hay không, cân nhắc điều trị khi nghĩ đến nguy cơ và lợi ích (risk- effectiveness) cho cả mẹ và phôi/ thai nhi.
Phòng chống sốt rét cho phụ nữ trong thời gian mang thai
i.Điều trị dự phòng từng đợt, gián đoạn.
ii.Sử dụng màn tẩm hóa chất.
iii.Giám sát các ca bệnh sốt rét.
Trong các vùng lây truyền SR P.falciparum ổn định, dự phòng các trường hợp nhiễm bệnh SR không triệu chứng thông qua hai biện pháp điều trị dự phòng từng đợt và sử dụng màn có tẩm hóa chất sẽ có hiệu quả rất lớn về sức khỏe.
Điều trị dự phòng từng đợt là cấp thuốc SR còn hiệu lực để uống phòng, ít nhất hai đợt khi bà mẹ đi khám thai; giải pháp này tỏ ra an toàn, rẻ tiền và có hiệu lực. Một nghiên cứu ởMalawi đánh giá hiệu quả của điều trị dự phòng từng đợt cho biết có sự giảm KSTSR trong nhau thai (32% ₡₡ 23%), giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân khi sinh (23% ₡₡ 10%) và tỷ lệ phụ nữ mang thai ở đây thực hiện biện pháp điều trị dự phòng từng đợt đạt 75%.
Sử dụng màn tẩm hóa chất làm giảm tỷ lệ số ca nhiễm SR và tỷ lệ tử vong do SR đối với sản phụ và trẻ sơ sinh. Một nghiên cứu trong vùng SRLH nặng của Kenya cho biết PNCT được bảo vệ bằng màn tẩm khi ngủ trong suốt thời gian mang thai sẽ làm giảm 25% số trẻ sơ sinh thiếu cân và tử vong sơ sinh. Ngoài ra, dùng màn tẩm hóa chất còn có lợi là trẻ ngủ cùng với mẹ giảm nguy cơ nhiễm SR. Có thể cung cấp màn tẩm hóa chất cho PNCT càng sớm càng tốt và việc sử dụng màn này cần cho cả khi mang thai và suốt thời kỳ sau sinh.
Trong vùng lây truyền SR không ổn định, thai phụ không có hoặc miễn dịch SR thấp nên dễ có nguy cơ mắc SR nặng. Mặc dù hiện nay chưa có các biện pháp hiệu quả đầy đủ để phòng chống SR trong PNCT chưa có miễn dịch SR, nhưng việc sử dụng màn tẩm hóa chất sẽ giảm tiếp xúc với muỗi có nhiễm SR, nên sẽ giảm ca bệnh SR. Các yếu tố cần thiết chăm sóc phụ nữ trước sinh có thể bao gồm chẩn đoán SR ở những khu vực có thể và nếu thấy cần thiết điều trị thuốc SR, đó là biện pháp an toàn và hiệu quả sử dụng cho PNCT.
Chương trình Đẩy lùi SR (RBM) hợp tác thực hiện an toàn cho PNCT (Making Pregnancy Safer) tập trung chính đến nguy cơ SR đối với PNCT trong nổ lực PCSR. Tuy nhiên, vẫn còn các trở ngại lớn khi áp dụng các chương trình có hiệu quả và nghiên cứu những phụ nữ mà họ là đối tượng được hưởng lợicủa chương trình, đặc biệt đối với nhóm phụ nữ mới lập gia đình có thai lần đầu.
Hiện nay, còn rất nhiều phụ nữ châu Phi thiếu được chăm sóc y tế và có thể bị hạn chế trong tiếp cận sử dụng các biện pháp hiệu quả như sử dụng màn tẩm hóa chất, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa. Để có hiệu quả về PCSR cho phụ nữ có thai, nên tập trung theo các mắc xích sau:
1.Nâng cao nhận thức PCSR cho PNCT trong các cộng đồng chịu nhiều tác động của bệnh SR.
2.Lồng ghép biện pháp PCSR với các mục tiêu khác của y tế cho PNCT và trẻ sơ sinh.
3.Đẩy mạnh hệ thống chăm sóc sức khỏe trước sinh.
4.Đầu tư thêm tài chính vào công tác PCSR.
Diagnosis of malaria can be difficult
Where malaria is not endemic any more (such as the United States), health care providers are not familiar with the disease. Clinicians seeing a malaria patient may forget to consider malaria among the potential diagnoses and not order the needed diagnostic tests. Laboratorians may lack experience with malaria and fail to detect parasites when examining blood smears under the microscope.
In some areas, malaria transmission is so intense that a large proportion of the population is infected but not made ill by the parasites. Such carriers have developed just enough immunity to protect them from malarial illness but not from malarial infection. In that situation, finding malaria parasites in an ill person does not necessarily mean that the illness is caused by the parasites.
In many malaria-endemic countries, lack of resources is a major barrier to reliable and timely diagnosis. Health personnel are undertrained, underequipped and underpaid. They often face excessive patient loads, and must divide their attention between malaria and other equally severe infectious diseases such as pneumonia, diarrhea, tuberculosis and HIV/AIDS.