1. Sự kháng thuốc chống sốt rét:
Sự kháng thuốc của Plasmodium falciparum với chloroquine hầu như xuất hiện cùng lúc ở Colombia và ở biên giới Thái Lan-Campuchia. Ở châu Á, sự kháng chloroquine được ghi nhận lần đầu tiên ở biên giới bán đảo Đông Dương. Đến những năm 1970, nó lan rộng về phía miền Tây và hướng về các đảo láng giếng ở Đông Nam Á. Sự kháng chloroquine tại Châu Phi xuất hiện muộn hơn và phải mất một thập kỷ mới lan tràn hết cả lục địa.Hiện nay, chỉ có các nước ở vùng Trung Mỹ nằm ở phía Bắc kênh đào Panama và đảo Hispariola là không có tài liệu sốt rét về Plasmodium falciparum kháng chloroquine. Bất chấp sự kháng chéo giữa chloroquine và amodiaquine, amodiaquine vẫn có hiệu quả hơn chloroquine ở những vùng kháng chloroquine. Tuy nhiên, amodiaquine có thể nhanh chóng mất hiệu quả nếu sử dụng cùng độ lớn ở các vùng kháng chloroquine cao trên diện rộng.
Từ những năm 80 ở nhiều nước, người ta bắt đầu sử dụng phối hợp Sulfadoxine- pyrimethanine để thay thế chloroquine. Mặc dù, phương pháp này hầu như không hiệu quả ở Thái Lan và các nước láng giềng và kháng nhanh với trị liệu trên diện rộng ở Nam Mỹ. Năm 1993, Malawi là quốc gia đầu tiên ở Châu Phi thay đổi từ chloroquine sang phối hợp Sulfadoxine - pyrimethanine như một thuốc điều trị tuyến đầu và các nước Châu Phi khác cũng làm theo tiền lệ này vào cuối những năm 1990. Vì sự sử dụng rộng rãi phối hợp này nên sự kháng thuốc đã lan rộng ở Đông Phi.
Sự kháng với mefloquine đã được phát hiện phần lớn ở Campuchia, Myanma, Thái Lan và Việt Nam. Thỉnh thoảng, các ca thất bại dự phòng và thất bại điều trị với mefloquine ở những người du lịch được ghi nhận ở Châu Phi, các nước ở Châu Á khác và Nam Mỹ. Một vài nghiên cứu in vitro ở Tây Phi đã cho thấy sự giảm nhạy in vitro cũng như sự tồn tại của dòng giảm nhạy với mefloquine thậm chí trước khi đưa nó vào vùng sử dụng điều trị.
Sự kháng với quinine thường được đánh giá quá mức như liều 24 mg base/kg trong 7 ngày ít được chú ý và ngưỡng này với sự kháng in vitro vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Cho tới nay, chưa có sự kháng với với artemisimin hoặc dẫn suất artemisimin được thông báo, mặc dú có một số thông báo về sự giảm nhạy in vitro ở Trung Quốc và Việt Nam.
2. Ảnh hưởng của kháng thuốc:
Sự kháng với các thuốc chống sốt rét làm gia tăng tổn thất toàn cầu trong kiểm soát bệnh tật. Thất bại trong điều trị không những làm các cơ sở y tế phải xem xét lại việc chẩn đoán và điều trị, mà còn ảnh hưởng đến ngày công lao động ở người lớn và việc học hành ở trẻ em. Các nghiên cứu ở Đông Phi cho biết thiếu máu, nguyên nhân dẫn dến tình trạng việc điều trị không hiệu quả, làm cho sức khỏe của trẻ em yếu hơn. Ở Trung Phi, sự xuất hiện kháng chloroquine đã dẫn tới sự gia tăng của bệnh nhân sốt rét nặng. Tương tự, xu hướng gia tăng số tử vong sốt rét đã được xác định ở cộng đồng Senagan. Tác động của sự kháng thuốc cũng có thể làm rỏ qua sự thay đổi trông tỷ lệ của Plasmodium falciparum đối với chủng loại KST sốt rét khác. Ví dụ ở Ấn Độ, từ khi có hiện tượng kháng thuốc, Plasmodium falciparum chiếm hơn 50% trong tất cả các cơn sốt rét, thay vì tỷ lệ 23% như đã thông báo trước đây.
3. Những nổ lực của World Health Organization trong việc đối phó với sự kháng thuốc chống sốt rét:
Sự lan rộng nhanh chóng của sốt rét kháng thuốc trong vài thập kỷ qua đòi hỏi phải tăng cường giám sát sự kháng thuốc hơn nữa, để đảm bảo quản lý thích hợp các ca lâm sàng và phát hiện sớm những kiểu thay đổi của kháng thuốc cho việc xem lại các chính sách điều trị sốt rét của quốc gia.Các thủ tục thử nghiệm sẳn có bao gồm hiệu lực điều trị (cũng được biết đến như thử nghiệm in vitro), thử nghiệm nhạy cảm in vitrovà các nghiên cứu kết hợp đột biến gen và khuyếch đại gen với ký sinh trùng kháng thuốc. Để giải thích và so sánh kết quả giữa các vùng và các thời gian, những KST này phải được tiến hành với các quy trình và tiêu chuẩn giống nhau.
Vì lẽ đó, WHO đặt tầm quan trọng về tiêu chuẩn hóa các phương pháp sẳn có. Đặc biệt từ những năm 1966, WHO đã cập nhật protocol cho việu đánh giá hiệu lực thuốc chống sốt rét cơ bản theo đề nghị của chuyên gia và phản hồi từ thực địa.
WHO ủng hộ các chương trình quốc gia phòng chống sốt rét bao gồm các phát triển và tăng cường mạng lưới quốc gia giám sát sốt rét kháng thuốc. Vai trò của mạng lưới này là giám sát hiệu lực thuốc chống sốt rét (bao gồm trị liệu phối hợp) cho điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum và với phạm vi nhỏ hơn là P.vivax. Hổ trợ của WHO bao gồm cả tự giúp việc lựa chọn các điểm Setynel thích hợp, đào tạo tăng cường xem xét các phòng thí nghiệm kiểm soát chất lượng và phân tích số liệu. Thông tin cập nhật về hiệu lực thuốc chống sốt rét là một yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định để thay đổi chính sách thuốc. Từ năm 1996 đến 2004, trên 50 nước (gồm 30 nước ở Châu Phi) đã thay đổi thuốc điều trị tuyến đầu với thường Plasmodium falciparum trong kết quả hệ thống giám sát cơ bản của họ.
|
Nghiên cứu các loại thuốc điều trị sốt rét mới, an toàn và hiệu quả |
Bằng kinh nghiệm của mạng lưới Đông Phi về giám sát điều trị sốt rét kháng thuốc, WHO cũng đang hỗ trợ bổ sung các mạng lưới tiểu khu vực cho việc giám sát kháng thuốc sốt rét. Những thông tin về hiệu lực thuốc từ các mạng lưới này và kinh nghiệm về các phác đồ điều trị mới có thể được chia sẻ giữa các nước thành viên WHO nhằm mục đích là hỗ trợ bộ y tế các nước đưa ra những thay đổi về chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được các phương pháp điều trị sốt rét hiệu quả nhất hiện có. Cùng với Mạng lưới Đông Phi về giám sát điều trị SR kháng thuốc, có 5 mạng lưới tiểu vùng khác cũng đã được thành lập ở Châu Phi (1 ở Trung Phi, 2 ở Tây Phi, 1 ở Horn of Africa, và 1 ở Ấn Độ Dương). Có 2 mạng lưới ngoài lục địa châu Phi đang đi vào hoạt động và tiếp nhận trợ giúp về tài chính và kỹ thuật của WHO, đó là Mạng lưới Mekong và Mạng lưới Amazon.
KẾT LUẬN:
Kết quả của các thử nghiệm về hiệu quả các phác đồ điều trị có thể được ứng dụng trong nhận định liệu một loại thuốc sốt rét vẫn còn hiệu lực hay không. Qua đó có thể giúp thiết kế các đề cương nghiên cứu về giám sát hiệu lực của các thuốc ở tuyến đầu và tuyến trên để đáp ứng các mục tiêu cụ thể của chương trình. Các chương trình quốc gia PCSR cần thiết lập mạng lưới giám sát với đầy đủ nhân lực được đào tạo và các điểm cắm chốt nhằm giúp công tác giám sát được tiến hành thường xuyên. Những nước chưa thay đổi các chính sách quốc gia (chỉ áp dụng các phác đồ điều trị đơn thuần) nên bắt đầu nghiên cứu các phác đồ điều trị phối hợp với các dẫn chất artemisinin để có thể tuân thủ khuyến cáo về chính sách điều trị của WHO. Ngoài ra, các nước này cũng phải áp dụng các đề cương nghiên cứu chuẩn để có thể so sánh kết quả nghiên cứu với các nước láng giềng, với các nước trong tiểu vùng hoặc các mạng lưới của khu vực. Thời gian giám sát phải được tiến hành trong ít nhất là 28 ngày. Mục tiêu là phải điều trị tiệt căn sốt rét, dù khu vực đó đang có lan truyền bệnh. Các liều điều trị sốt rét chuẩn (hàm lượng thuốc đáp ứng tối đa và dễ được chấp nhận nhất) phải được áp dụng cả trong chính sách điều trị quốc gia và các nghiên cứu về hiệu lực điều trị. WHO sẽ theo dõi các dữ liệu này để đối phó với tình huống kháng thuốc nếu có xảy ra.
Các thử nghiệm in vitro và sinh học phân tử, ngày càng được khuyến khích sử dụng rộng rãi, là những công cụ quan trọng trong nghiên cứu từng loại thuốc một cách độc lập, đặc biệt là khi sử dụng phối hợp thuốc. Những kỹ thuật này cũng là một phần quan trọng trong hệ thống dự báo sớm vì chúng giúp hướng dẫn thử nghiệm hiệu lực điều trị. Nhu cầu đào tạo và nhân lực cho những kỹ thuật này hiện là vấn đề cấp bách và cần phải xây dựng các trung tâm thử nghiệm cấp quốc gia và khu vực. Ngoài ra cũng cần chuẩn hoá các phương pháp điều trị cũng như việc thực hiện quản lý chất lượng để đảm bảo tính liên tục và chất lượng của dữ liệu.