Những thông tin được ngành y tế cung cấp trong thời gian qua đã đề cập nhiều đến bệnh giun móc, một loại bệnh về ký sinh trùng đường ruột; còn bệnh giun mỏ ít khi được đề cập đến. Vậy ở nước ta có bệnh giun mỏ lưu hành không và giun mỏ có giống với giun móc không ?
Giun móc và giun mỏ là hai loại giun khác nhau
Giun móc và giun mỏ đều thuộc họ Ancylostomidae, thường có tên chung là giun móc. Thật ra, giun móc có tên khoa học là Ancylostoma duodenale phân bố nhiều ở châu Âu, Tây Nam châu Á và giun mỏ có tên khoa học là Necator americanus phân bố nhiều ở châu Phi nhiệt đới, châu Mỹ. Cả hai loại giun này đều có sự phân bố rộng rãi ở khắp các nước vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ranh giới phân biệt hai loại giun căn cứ vào sự khác nhau về đặc điểm hình thể, vòng đời sinh học nhưng nó có nhiều đặc điểm giống nhau về hình thái, bệnh học, biện pháp phòng chống. Ngoài hai loại giun móc và giun mỏ thường gây nhiễm bệnh cho người, con người cũng có thể bị nhiễm loại giun móc Ancylostoma ceylanicum, tuy giun không gây bệnh phổ biến nhưng rất đáng được quan tâm ở một số nơi như Trung Quốc, các nước Đông Nam Á ... Loại giun móc Ancylostoma ceylanicum thường gây bệnh cho chó, mèo, có vòng đời sinh học gần giống như loại giun móc Ancylostoma duodenale. Hiện nay các bệnh từ động vật truyền sang người trong đó có các bệnh ký sinh trùng đang được ngành y tế dự phòng chú ý phát hiện và có biện pháp phòng chống.
Ở Việt Nam, bệnh giun mỏ, giun móc nói chung lưu hành khá rộng rãi với tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm cao ở một số vùng. Loại giun mỏ Necator americanus khá phổ biến, chiếm tỷ lệ khoảng 95%; loại giun móc Ancylostoma duodenale chiếm tỷ lệ khoảng 5% trong tổng số người bị nhiễm. Hầu hết các cơ sở y tế của nước ta hiện nay chưa có điều kiện để phân biệt hai loại giun móc và giun mỏ nhìn đại thể bằng mắt thường. Tuy nhiên có thể nhận biết bằng các đặc điểm như giun mỏ nhỏ hơn, ngắn hơn giun móc; góc độ tạo ra bao miệng với thân của giun mỏ bé hơn giun móc.
Gọi giun mỏ vì bệnh phát triển ở các vùng mỏ than dưới mặt đất tại các nước có thời tiết, nhiệt độ và độ ẩm thích hợp để giun phát triển trong điều kiện sinh hoạt hạn chế của công nhân ở các mỏ than. Hiện nay điều kiện lao động của công nhân ở các mỏ than đã được cải thiện nhiều nên bệnh giun mỏ cũng giảm đáng kể. Ở các nước nhiệt đới và bán nhiệt đới, bệnh giun mỏ và giun móc có liên quan đến nông dân tại những nơi trồng mía, trồng dâu nuôi tằm, trồng thuốc lá ... Giun mỏ là loại giun thường gặp chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới, còn loại giun móc thường gặp chủ yếu tại các vùng ôn đới.
|  |
Giun móc Ancylostoma duodenale | Giun mỏ Necator americanus |
Đặc điểm để phân biệt hai loại giun móc và giun mỏ
Giun móc và giun mỏ trên thực tế khó phân biệt được bằng mắt thường, vì vậy muốn xác định được hai loại giun này phải sử dụng kính hiển vi phóng đại hình thể cấu tạo để xem các đặc điểm. Kỹ thuật này không phải cơ sở y tế nào cũng có thể thực hiện được vì đòi hỏi phải có xét nghiệm viên chuyên khoa ký sinh trùng giỏi, lành nghề.
Loại giun móc Ancylostoma duodenale có kích thước giun cái dài 9-15 mm, giun đực dài 7-10 mm. Hình dạng thân đầu cong về lưng. Bao miệng có hai đôi răng phía bụng hình móc, hai đôi răng phía lưng thoái hóa. Vị trí lỗ sinh dục cái ở nửa sau thân. Đuôi giun cái có gai, đuôi giun đực bao rộng, ngắn, cốt lưng có ba nhánh, nhánh giữa tách đôi thành hai nhánh con. Hai hai sinh dục đầu nhọn rời nhau.
Loại giun mỏ Necator americanus có kích thước giun cái dài 8-13,5 mm, giun đực dài 5-10 mm. Hình dạng thân đầu cong về bụng. Bao miệng có hai tấm răng phía bụng, răng phía lưng phát triển. Vị trí lỗ sinh dục cái ở nửa trước thân. Đuôi giun cái không có gai, đuôi giun đực có bao hẹp, dài, cốt lưng có bốn nhánh, hai nhánh giữa tách đôi thành bốn nhánh con. Hai gai sinh dục đầu gai có ngạnh dính vào nhau.
Khi xét nghiệm phân để phát hiện trứng giun, bình thường rất khó phân biệt trứng giun móc và trứng giun mỏ. Trứng giun hình trái soan, vỏ mỏng, trong suốt, không màu, khi mới đẻ đã phân cắt thành 4-6 phần. Nhìn chung trứng giun mỏ dài, thon hơn trứng giun móc. Kích thước trứng giun mỏ khoảng 70 µm, trứng giun móc khoảng 60 µm.
Vòng đời của hai loại giun móc và giun mỏ không hoàn toàn giống nhau mà có những điểm khác biệt quan trọng để phân biệt. Giun mỏ chỉ lây qua đường da, rất hiếm thấy lây qua đường tiêu hóa; còn giun móc lây nhiễm cả qua đường tiêu hóa và đường da. Nếu lây nhiễm qua đường da thì vòng đời sinh học của hai loại giun này giống nhau.
Đường lây truyền và cách phòng chống hai loại giun
Đường lây truyền và cách phòng chống cả hai loại giun mỏ và giun móc gần giống nhau. Giun mỏ và giun móc lây nhiễm cho người qua đường da là chủ yếu, còn qua đường tiêu hóa là thứ yếu. Ở những nơi điều kiện vệ sinh thấp kém, còn tập quán dùng phân người tươi chưa được xử lý để trồng trọt, bón ruộng, chăn nuôi, có tình trạng phóng uế bừa bãi, nuôi súc vật thả rong, lợn ăn phân người ... sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giun mỏ và giun móc lưu hành. Mầm bệnh giun không phát triển ở động vật nhưng nó cũng không bị chết và được thường xuyên thải ra môi trường làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Tất cả mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm giun. Đối tượng nào thường tiếp xúc với phân nhiều thì có tỷ lệ nhiễm giun cao. Ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm giun ở phụ nữ vùng nông thôn cao hơn các đối tượng khác. Nói chung vùng đồng bằng ven biển, vùng trồng rau màu, các bãi bồi ven sông, vùng hầm mỏ ... có tỷ lệ nhiễm giun mỏ, giun móc cao, cường độ nhiễm nặng.
Công tác phòng chống bệnh giun mỏ và giun móc cần phải tiến hành một cách có quy mô, kết hợp các biện pháp y tế với việc cải tiến kỹ thuật canh tác, cơ khí hóa nông nghiệp, thay đổi tập quán sinh hoạt ... Những nỗ lực phòng chống bệnh hiện nay cần tập trung vào các vùng bị nhiễm giun nặng. Biện pháp điều trị hàng loạt, điều trị chọn lọc bệnh rất có hiệu quả, mức độ tái nhiễm giun thấp hơn nhiều so với mức độ tái nhiễm bệnh giun đũa. Trong công tác phòng chống bệnh cần chú ý việc phát hiện, điều trị bệnh nhân để hạn chế nguồn bệnh; xử lý tốt nguồn phân thải bằng cách sử dụng các loại hố xí hợp vệ sinh; truyền thông giáo dục sức khỏe về ý thức vệ sinh, kiến thức phòng chống bệnh vì ở nhiều nơi mặc dù có đầy đủ hố xí hợp vệ sinh nhưng trẻ em vẫn phóng uế bừa bãi. Ngoài ra việc xử lý, làm sạch môi trường, ngoại cảnh cũng cần được thực hiện để diệt trứng, ấu trùng giun bằng cách rắc vôi bột, muối ở chỗ đất bị ô nhiễm nặng như chung quanh hố xí, nguồn phân... Ở những nơi có tỷ lệ nhiễm giun cao, cần phòng tránh nhiễm ấu trùng giun xâm nhập qua da vào cơ thể người để gây bệnh bằng cách hạn chế tiếp xúc với đất, phân, không ngồi hoặc nằm dưới đất; khi lao động tiếp xúc với phân, đất nên mang găng tay, đi ủng cao su hoặc các trang thiết bị bảo vệ da.