Phòng chống bệnh sán lá gan lớn:
1. Tình hình bệnh sán lá gan lớn tháng 4/2007:
Theo số liệu của Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, tháng 4/2007 đã phát hiện 73 ca sán lá gan lớn (SLGL) nhiễm mới, chiếm 17% so với tổng số 482 người được khám. Như vậy chỉ trong 4 tháng đầu năm 2007 tổng số ca SLGL được phát hiện tại Phòng khám Viện là 264, chiếm 13,73% so với tổng số 1.924 bệnh nhân đến khám. Số bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn vẫn tập trung cao nhất ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi và Gia Lai. Nhìn chung số lượng bệnh nhân đến khám và được cấp thuốc điều trị tại Viện giảm so với cùng kỳ năm trước, vì hiện nay hầu hết các cơ sở điều trị thuộc các tỉnh trọng điểm khu vực miền Trung-Tây Nguyên có lưu hành bệnh SLGL đều được cấp thuốc đặc hiệu Egaten (Triclabendazole) giúp cho việc giảm tải số lượng lớn bệnh nhân về Phòng khám của Viện.
Ngoài bệnh SLGL, Phòng khám Viện còn phát hiện nhiều bệnh nhân mắc bệnh nội khoa (viêm loét dạ dày-tá tràng, viêm đại tràng, viêm đường mật...), nhiễm các loại ký sinh trùng khác (giun móc, giun tóc, giun đũa, giun đũa chó, sán dây bò, sán dây lợn...); đặc biệt thời gian gần đây phát hiện một số bệnh nhân có hội chứng dạ dày-tá tràng do nhiễm giun lươn qua xét nghiệm huyết thanh, ELISA, soi phânvà chẩn đoán lâm sàng.
2. Các hoạt động phòng chống sán lá gan lớn:
Vụ Điều trị-Bộ Y tế đã có Công văn số 710/BYT-DTr ngày 5/2/2007 về việc phân bổ 10.000 viên thuốc Egaten điều trị sán lá gan lớn do WHO tài trợ cho các tỉnh có tỷ lệ nhiễm bệnh cao và yêu cầu các Viện Sốt rét-KST-CT thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng thuốc của các đơn vị theo đúng các quy định hiện hành để đảm bảo việc sử dụng thuốc an toàn hiệu quả cho người bệnh và điều chỉnh thuốc từ nơi thừa sang nơi thiếu khi cần thiết; đồng thời báo cáo tình hình nhiễm SLGL, tình hình sử dụng thuốc điều trị SLGL về Bộ Y tế vào tuần cuối cùng của các quý.
|
Báo cáo tình hình nhiểm sán lá gan lớn tại Viện |
Để giúp các tỉnh triển khai điều trị sán lá gan lớn hiệu quả, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tổ chức 3 lớp tập huấn theo Chương trình của Bộ Y tế và 7 lớp tập huân theo Chương trình của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về chẩn đoán, điều trị sán lá gan lớn và công tác thống kê-báo cáo cho các tuyến tỉnh/huyện có tỷ lệ nhiễm SLGL cao ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên (trong đó tháng 4/2007 tổ chức tập huấn tại chỗ cho 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Gia Lai); tuy nhiên cho đến nay, Viện chưa nhận được báo cáo phản hồi nào từ phía các địa phương. Theo sự chỉ đạo của Bộ Y tế, Viện đã có Công văn số 118/VSR-KST ngày 23/4/2007 về việc báo cáo phát hiện và điều trị sán lá gan lớn gửi các Sở Y tế và các Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP trong khu vực, đồng thời sẽ có kế hoạch tổ chức kiểm tra về công tác chẩn đoán và điều trị tại một số tuyến đã được cấp thuốc.
Ngoài ra Viện còn tổ chức điều tra phát hiện bệnh SLGL ở 5 điểm thực địa thuộc 4 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Quảng Trị và Đăk Lăk; phát hiện tỷ lệ nhiễm khoảng 3-5%. Các bênh nhân phát hiệnđều được chuyển đến các cơ sở điều trị để cấp thuốc miễn phí.
Phòng chống các bệnh truyền nhiễm Tiểu vùng sông Mê Kông:
Theo kế hoạch hoạt động năm 2007 của Dự án phòng chống các bệnh truyền nhiễm Tiểu vùng sông Mê Kông, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn chịu trách nhiệm triển khai thiết kế và hoàn thiện bộ tài liệu tuyên truyền phòng chống các bệnh giun truyền qua đất (giun đũa, giun tóc, giun móc) ở3 tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên là Quảng Trị, Đà Nẵng và Đăk Lăk về phần “Đánh giá sự tiếp nhận bộ tài liệu truyền thông phòng chống các bệnh giun truyền qua đất của cộng đồng” và cung cấp 3.600 cuốn tài liệu tuyên truyềncho các tuyến tỉnh,huyện, xã và thôn bản trong quý II/2007 để đảm bảo tiến độ Dự án đã đề ra.
Hoạt động Dự án quốc gia loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết:
Được sự tài trợ ngân sách của WHO, trong năm 2007 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động của Dự án loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết tại các huyện Khánh Vĩnh, Diên Khánh và Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hòa) và huyện Bắc Ai (tỉnh Ninh Thuận). Đây là các huyện có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun chỉ bạch huyết đã được WHO đưa vào thực hiện Dự án từ năm 2003.