Bệnh sán lá gan lớn gây nên bởi một trong hai loại ký sinh trùng ký sinh ở động vật ăn cỏ (trâu, bò, cừu…) có tên khoa học là Fasciola hepatica và Fasciola gigantica; ấu trùng sán lá gan lớn từ chất thải của những động vật bị ký sinh này sẽ bám vào các loại rau sống dưới nướchay còn gọi là rau thủy sinh như rau ngổ, rau cải xoong, rau muống, rau đắng…, khi người ăn sống các loại rau thủy sinh có ấu trùng sán lá gan lớn sẽ bị nhiễm bệnh.
Trên thế giới bệnh sán lá gan lớn được phát hiện ở Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Phi và Châu Á với các mức độ lưu hành khác nhau liên quan đến sự nhiễm bệnh từ động vật ăn cỏ. Tại Việt Nam bệnh sán lá gan lớn trước đây chỉ xuất hiện lẻ tẻ, nhưng từ năm 2003 đến nay đã được phát hiện ở 45 tỉnh thành và tập trung cao ở một số tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Theo số liệu thống kê của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, tổng số bệnh nhân sán lá gan lớn trong cả nước từ năm từ 2003-2005 là 2.034 ca và 6 tháng đầu năm 2006 là 1.350 ca; theo số liệu thống kê của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, tổng số bệnh nhân sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên từ năm từ 2003-2005 là 1.890 ca và 6 tháng đầu năm 2006 là 1.465 ca. Tác nhân gây bệnh được xác định ở khu vực miền Trung là loài sán lá gan lớn Fasciola gigantica.Mặc dù chưa có sự cập nhật đầy đủ tình hình nhiễm bệnh giữa các vùng miền, nhưng những dẫn liệu nêu trên đều có một điểm thống nhất là bệnh sán lá gan đang có xu hướng phát triển và gia tăng đột biến vào 6 tháng đầu năm 2006. |
H2 |
Có nhiều lý do giải thích nguyên nhân tăng mạnh bệnh sán lá gan như sự chăn nuôi trâu bò ngày càng phát triển cùng với thói quen ăn sống các loại rau thủy sinh, áp lực bệnh nhân gia tăng do trong một thời gian gián đoạn thuốc điều trị hiệu quả, tăng khả năng phát hiện bệnh nhờ các kỹ thuật chẩn đoán hiện đại … Tuy nhiên nghịch lý ở đây là ý thức phòng bệnh của cộng đồng hình như không tương xứng với sự tiến bộ của khoa học y học dự phòng, lẽ ra trong điều kiện xã hội phát triển việc “ăn chín uống sôi” phải trở thành một ý thức hệ để hạn chế khả năng lây nhiễm các bệnh đường ruột, thì phần lớn người dân bao gồm nhiều người có kiến thức khoa học thường thức lại ham thích những món ăn không được nấu chín góp phần làm cho nguy cơ nhiễm bệnh ngày một gia tăng.
Để chẩn đoán bệnh sán lá gan lớn cần phải dựa vào kết quả thăm khám lâm sàng và tiền sử mắc bệnh, xét nghiệm máu, thử nghiệm huyết thanh tìm kháng thể sán lá gan, siêu âm phát hiện có tổn thương ở gan. Các thuốc điều trị bệnh sán lá gan lớn được sử dụng trước đây như Emetin, Dehydroemetin có hiệu quả nhất định, nhưng gây độc cơ tim và hiện nay không còn xuất hiện trên thị trường; các thuốc Albendazole, Mebendazole hiệu quả điều trị không cao; nên việc xác định hiệu lực điều trị của thuốc Triclabendazole (Egaten) được xem như là một thuốc đặc hiệu điều trị sán lá gan lớn ở người hiện nay. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm Triclabendazole của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn cho thấy: Phác đồ điều trị 10mg/kg/24h liều duy nhất, uống sau khi ăn sau 6 tháng điều trị, khỏi về lâm sàng đạt 95- 100%, khỏi về siêu âm 85- 95%, xét nghiệm Elisa trở về âm tính 80 - 90%. Thuốc dung nạp tốt qua đường uống, tác dụng phụ nhẹ thoáng qua. |
Trước thực trạng bệnh sán lá gan lớn ở nước ta, Bộ Y tế đã tổ chức hai cuộc họp do Bộ trưởng và Thứ trưởng trực tiếp chủ trì với sự tham gia của các Vụ Điều Trị, Vụ Khoa học-Đào tạo, Vụ Tài chính-Kế toán, Cục Y tế dự phòng Việt Nam, Cục Quản lý Dược, Vụ Pháp chế, Thanh tra Bộ Y tế, lãnh đạo và chuyên viên Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, Viện Sốt rét KST-CT Trung ương để đề ra các giải pháp phòng chống thích hợp:
1. Xây dựng hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn ở người dựa trên các kết quả nghiên cứu của các Viện, bệnh viện; các tài liệu tham khảo trong, ngoài nước và ý kiến đóng góp của các chuyên gia. Chỉ đạo các tuyến điều trị và các cơ sở khám chữa bệnh phải chẩn đoán đúng bệnh và điều trị đúng theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn do Bộ Y tế ban hành, đảm bảo an toàn cho người bệnh.
2. Đảm bảo cung cấp đủ thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân đã phát hiện, xác định nhu cầu thuốc để có kế hoạch nhập thuốc đặc hiệu Triclabendazole (Egaten) đáp ứng nhu cầu điều trị hàng năm tại các địa phương khi đã hết nguồn thuốc viện trợ.
3. Xây dựng chương trình phòng chống sán lá gan lớn trên phạm vi cả nước bao gồm cả phòng bệnh và chữa bệnh, nguồn ngân sách chủ yếu là tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các dịch vụ khám chữa bệnh. Sự giải quyết thuốc đặc hiệu miễn phí chỉ dành cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, những đối tượng có bảo hiểm y tế. Chương trình phòng chống bệnh sán lá gan lớn trước mắt là 5 năm nhằm giảm thiểu khả năng nhiễm bệnh tại cộng đồng; sau đó sẽ tiếp tục xây dựng các yếu tố bền vững nhằm khống chế hoàn toàn bệnh sán lá gan.
4. Tăng cường công tác giáo dục truyền thông phòng chống sán lá gan lớn cho cộng đồng nhằm nâng cao sự hiểu biết về đường lây và tác hại của bệnh, hạn chế nguy cơ lây nhiễm tại cộng đồng. Chỉ đạo các viện, Sở Y tế các tỉnh/thành phố xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe trên các phương tiện thông tin đại chúng về phòng chống bệnh sán lá gan.
5. Khẩn trương thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về bệnh sán lá gan lớn đã được phê duyệt để có thể tổ chức nghiệm thu đúng tiến độ, chỉ đạo các đơn vị tiếp tục tiến hành các đề tài nghiên cứu tại cộng đồng về nguyên nhân và nguồn lây nhiễm bệnh…
Với sự quan tâm giải quyết của Ngành Y tế, áp lực bệnh nhân tại các cơ sở điều trị đã dần được giảm tải, những khó khăn bước đầu khi phải đối phó với tình hình bệnh sán lá gan ở khu vực miền Trung đã được tháo gỡ để trên cơ sở đó xây dựng chiến lược phòng chống bệnh sán lá gan lớn trên phạm vi cả nước.