Sán máng là một loại sán dẹp, có con đực và con cái riêng biệt, sống chủ yếu trong hệ tuần hoàn và hút máu; tùy theo từng loại ký sinh ở các hệ tĩnh mạch của các các cơ quan khác nhau. Có 5 loài sán máng gây bệnh ở người:
- Schistosoma hamatobium (S. hamatobium) phát hiện năm 1851, chủ yếu ở châu Phi, vùng Trung Đông và gần đây báo cáo ở Ấn Độ (vùng Ratnagiri)
- Schistosoma mansoni (S.mansoni) phát hiện năm 1902, chủ yếu ở châu Phi, Nam Mỹ
- Schistosoma japonicum (S.japonicum) phát hiện năm 1903, chủ yếu ở Đông Á, Trung Quốc, Philippine, Nhật Bản
- Schistosoma intercalatum phát hiện năm 1934, chủ yếu ở châu Phi
- Schistosomamekongi phát hiện năm 1978, chủ yếu ở Lào, Campuchia.
|
Hình ảnh 3 loài sán máng chủ yếu gây bệnh ở người |
|
Chu kỳ của sán máng |
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Văn Đề và CS (năm 2000) tại sông Srepok (Đăk Lăk) và nhánh sông Đà (Sơn La), trong các loài ốc được định loại có ốc trung gian truyền bệnh sán máng như Oncomelania sp là vật chủ trung gian của S.japonicum như ở Trung Quốc, Maningilla sp. và Neotricula aperta là vật chủ trung gian của S.mekongi như ở Campuchia và Lào. Tuy nhiên chưa phát hiện được bệnh sán máng trên người ở các điểm điều tra. Gần đây Huỳnh Hồng Quang có thông báo một bệnh nhân sống tại Đăk Lăk đi công tác ở Trung Quốc, Thái Lan, Hồng Kông về có nhiễm sán lá gan lớn và dương tính với huyết thanh sán máng. Theo nghiên cứu của Stephen W.Attwood thuộc Đại học Schuan, Trung Quốc; Farra A.Fatih thuộc Bảo tàng tự nhiên Lon Don và E.Suchart Upatham thuộc Đại học Mahidol, Thái Lan cho thấy trong các mẫu nước lấy từ nhiều quốc gia khác nhau có sông Mêkong chảy qua, đặc biệt vùng Đông Nam Á như Campuchia, Lào, Malaysia đã tìm thấy ấu trùng sán máng. Tuy nhiên để khẳng định Việt Nam có sán máng lưu hành hay không và loài gì, cần có nghiên cứu đầy đủ về dịch tễ học của bệnh để trả lời chính xác.
Trong 5 loài sán máng, người ta thường chú ý đến 3 loài sán máng gây bệnh cho người nhiều nhất là sán máng S. hamatobium; S.mansoni và S.japonicum. Sự khác nhau giữa 3 loài sán máng này dựa chủ yếu vào các đặc điểm sau:
So sánh | S. hamatobium | S.mansoni | S.japonicum |
Con đực: - Kích thước: - Tinh hoàn | 1-1,5 cm x 1mm Có 4-5 nhánh | 1cm x 1mm Có 8-9 nhánh, ngoằn nghèo | 1-2 cm x 0,5mm 6-7 nhánh |
Con cái: - Kích thước: - Buồng trứng - Tử cung: | 2cm x 0, 25mm Ở phía sau giữa thân Chứa20-30 trứng | 1.4cm x 0, 25mm Ở phía trước giữa thân 1- 3 trứng | 2.6cm x 0,3mm Ở giữa của thân 50 hoặc nhiều hơn |
Loài ốc trung gian truyền bệnh | Bilinus hoặc Planorbis | Biomphalaria hoặc Australorbis | Oncomelania |
Nơi ký sinh | Chủ yếu ở các tĩnh mạch bàng quang, tuyến tiền liệt | Các tĩnh mạch mạc treo ruột | Các tĩnh mạch gan, lách, ruột |
Gây bệnh | Tổn thương chủ yếu là bàng quang | Gây tổn thương ở ruột | Gây tổn thương ở gan, lách, ruột |
|
Trứng sán máng |
- Chu kỳ của sán máng: Sán máng ký sinh ở các nhánh mạc treo của hệ tĩnh mạch gánh, lách, bàng quang. Trong khi cuộn với nhau, con cái giao hợp với con đực, sau đó con cái rời bỏ con đực đi ngược chiều máu chảy tới những huyết quản nhỏ để đẻ trứng. Số lượng trứng không nhiều nhưng có gai, những gai này làm rách niêm mạc vi quản để ra nước phát triển thành trùng lông, trùng lông bơi trong nước để tìm đến vật chủ trung gian là ốc để phát triển thành trùng đuôi. Trùng đuôi rời khỏi ốc bơi trong nước, trùng đuôi có đuôi xẻ đôi; khi người bơi lội hoặc tắm, trùng đuôi sẽ xâm nhập vào người qua da. Sau khi chui qua da, trùng đuôi xâm nhập vào các mao mạch bạch huyết rồi theo tuần hoàn ruột rồi cư trú ở hệ tĩnh mạch cửa; sau khoảng 60 ngày trùng đuôi sẽ trở thành sán trưởng thành.
- Biểu hiện lâm sàng: Biểu hiện sớm nhất của bệnh là ấu trùng chui qua da gây những điểm xuất huyết nhỏ, vài ngày sau khi nổi mẩn từng đám. Ở những bệnh nhân nhiễm nhiều có tính chất nhiễm độc: nhức đầu, đau các chi, rét run, ban đêm đổ mồ hôi, bạch cầu ái toan tăng, có thể tăng 20-60%.
| |
Bệnh nhân | nhiễm sán máng |
- Khi sán đẻ trứng, tùy từng loài sán mà biểu hiện lâm sàng khác nhau:
+ Đối với S. hamatobium triệu chứng tiết niệu là nổi bật, bệnh nhân có thể đái máu kèm theo đái rắt, đái buốt. Đôi khi có trường hợp không có triệu chứng gì đặc biệt, chỉ sốt qua loa, nổi mề đay; có trường hợp đái máu kiết lỵ nặng rồi tử vong
+ Đối với S.mansoni triệu chứng chủ yếu là đại tiện ra máu do ruột bị loét, gan lách to giống như hội chứng Banti, kèm theo sốt, thiếu máu nặng, sa trực tràng
+ Đối với S.japonicum triệu chứng chủ yếu là gan rất to và xơ hóa, lách to và đau; giai đoạn cuối xuất hiện cổ chướng.
|
Hình ảnh tổn thương ở ruột do sán máng |
|  |
Ấu trùng tiếp cận để chui qua da | Viêm da do ấu trùng sán máng |
- Chẩn đoán bệnh: để chẩn đoán xác định tùy từng loài sán mà ta có thể xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm phân tìm trứng. Có thể dùng phương pháp soi bàng quang, soi trực tràng kết hợp với xét nghiệm. Có thể chẩn đoán dán tiếp bằng các phương pháp phản ứng ngưng kết kháng nguyên, ELISA
- Điều trị bệnh: Trước đây người ta dùng thuốc Niridazole, Nilodin, Hycanthone… Ngày nay Praziquantel 600mg được lựa chọn để điều trị có hiệu quả nhất đối với các loại sán máng với liều 40mg/kg cân nặng/24h chia 2 lần, uống sau khi ăn no
- Phòng bệnh: cần phát hiện sớm và điều trị cho người bệnh, quản lý và xử lý phân và nước tiểu của người bệnh không cho khép kín chu kỳ của sán máng; đồng thời bảo vệ da khỏi sự xâm nhập của ấu trùng, cảnh giác với các hồ bơi công cộng vùng có lưu hành bệnh.