SÁN LÁ RUỘT LỚN (Fasciolopsis buski)
Tình hình dịch tễ bệnh sán láruột trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới: Sán lá ruột lần đầu tiên được mô tả bởi tác giả Busk khi phát hiện loài ký sinh trùng này trong ruột một thủy thủ người Ấn Độ tại London năm 1843. Từ đó đến nay, bệnh lưu hành rộng rãi ở một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Myanmar và Ấn Độ. Tại Trung Quốc, có nơi trẻ nhiễm đến 80-86%; tại Thái Lan, bệnh sán lá ruột chiếm đến 10% số ca nhiễm ký sinh trùng này ở đường ruột (Wiwanitkit và cộng sự., 2002).
Tại Việt Nam: thời gian từ năm 2000-2005, các nhà khoa học xác định sán lá ruột lớn Fasciolopsis buski có mặt tại 16 tỉnh, thành trong cả nước (Yên Bái, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Phú Thọ, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Đắc Lăk, Cần Thơ và An Giang. Tỷ lệ nhiễm chung trung bình là 1.23% (0.16-3.82%). Sán lá ruột trưởng thành thu thập từ bệnh nhân khi điều tra tại 7 tỉnh, thành Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ và An Giang đã được xác định loài là Fasciolopsis buski qua phương pháp hình thái học và sinh học phân tử.
Nguyên nhân gây bệnh:
Sán lá ruột lớn có tên khoa học là Fasciolopsis buski thuộc họ Fasciolidae, là loài sán lá lớn ký sinh ở ruột của thú và người và là bệnh sán lá truyền qua thức ăn. Bệnh sán lá ruột do từ nhiễm ấu trùng giai đoạn nhiễm (Lankester, 1857; Odhner,1902).
F.buski là loài sán lá lớn nhất trong ruột người, sán trưởng thành có kích thước 2-7,5cm x 0.8-2cm x 0,5-3mm và sống trong ruột non, đôi khi trong đại tràng và bám dính và niêm mạc môn vị.
Các trường hợp nhiễm nhẹ thường không biểu hiện triệu chứng, nhưng các cá nhân nhiễm nặng có thể xuất hiện đau bụng, tiêu chảy, suy dinh dưỡng, nhiễm độc máu (toxemia).
Trứng F.buski được giải phóng ra phân dưới dạng không thụ tinh (unembryonated egg). Một đầu trứng hình oval với nắp mỏng, màu nâu, kích thước từ 130-150 x 78-100µm.
Chu kỳ sinh học phát triển của sán lá ruột lớn
Các trứng trưởng thành ly giải phóng theo đường ruột ra ngoài theo phân(1) Trứng trở thành đóng phôi trong nước(2), trứng giải phóng ra thể miracidia (3), thể này xâm nhập vào vật chủ là loài ốc trung gian thích hợp (4) Trong ốc, ký sinh trùng sẽ trải qua một vài giai đoạn phát triển (sporocysts (4a), rediae (4b), và cercariae (4c)) Các thể cercariae đi ra khỏi ốc (5) và đóng kén thànhmetacercariae trong thủy sinh trên nước (6) Các động vật có vú bị nhiễm do tiêu hóa phải metacercariae trên các thực vật thủy sinh. Sau khi tiêu hóa, metacercariae thoát kén đi vào trong tá tràng (7) và dính vào trong thành ruột non. Tại đó, chúng phát triển thành sán trưởng thành (20-75 mm x 8-20 mm) trong khoảng 3 tháng, dính vào thành ruột non của các vật chủ là động vật có vú (người và lợn) (8) Các sán trưởng thành có tuổi thọ chừng 1 năm.
|
Chu kỳ sinh học phát triển của sán lá ruột lớn |
Hoặc chúng ta có thể tóm tắt như sau: Sán lá ruột lớn ký sinh trong ruột người hoặc lợn, đẻ trứng, tiếp đến trứng theo phân ra môi trường ngoài, trứng nở thành trùng lông và chui vào ốc. Từ ốc chúng sẽ phát triển ra thành nhiều trùng đuôi. Các ấu trùng giai đoạn này ký sinh trong các loại thực vật thủy sinh (củ ấu, củ niễng, ngó sen, rau ngổ, rau muống, các loại bèo, dâu,…). Khi người hoặc lợn ăn phải các thực vật thủy sinh chưa nấu chín và có dính/ mang nang ấu trùng sán lá ruột, các ấu trùng này sẽ thoát vỏ và trưởng thành thành sán lá ruột ký sinh tại ruột.
Sự phát triển trứng của sán lá ruột Fasciolopsis buski đòi hỏi oxygen và trứng không sống nổi trong điều kiện kỵ khí. Trứng đề kháng với nhiệt độ thấp và có thể duy trì ở 40C trong vòng 3-4 tháng; tuy nhiên, trứng bị giết chết ở 500C trong vòng 4 giờ. Sự xuất hiện của muối có thể ảnh hưởng lên thời gian phát triển của trứng và giảm tỷ lệ đẻ trứng. Các cercariae đóng kén không chỉ trên các thực vật thủy sinh, mà còn trên bề mặt nước. Số lượng cercariae đóng kén trên mặt nước hoặc nổi trên bề mặt nước khoảng 3.6% tổng số cercariae đóng kén. Điều tra bệnh sử người ta có thể tìm thấy 10.3-12.8% bệnh nhân và 35.1-40% lợn nhiễm có khả năng do uống nước có ấu trùng đóng kén. Một số tác giả đề nghị việc sử dụng silô ủ lên men (fermented silage) cho lợn ăn thay vì ăn các rau thủy sinh để ngăn ngừa nhiễm bệnh ở động vật. Ngoài ra, các thực vật thủy sinh như củ ấu, củ niễng, ngó sen nên được đung sôi 1-2 phút trước khi ăn để giết chết các cercariae đóng kén trên thực vật. Tác hại của bệnh
Sán lá ruột lớn ký sinh trong ruột không những chiếm thức ăn của vật chủ mà chính ký sinh mà còn gây tổn thương đến vật chủ như viêm ruột, tắc ruột, hoặc bán tắc ruột, gây rối loạn đường tiêu hóa.
Chẩn đoán:
Chẩn đoán lâm sàng: Sán lá ruột lớn thường gây ra triệu chứng đau bụng, rối loạn tiêu hóa, trường hợp nhiễm nặng có thể gây phù nề thành ruột, rối loạn hoặc mất nhiều vi nhung mao ruột nhiều đoạn ruột, làm cho quá trình hấp thu chất dinh dưỡng kém hơn.
Chẩn đoán cận lâm sàng:Chủ yếu xét nghiệm tìm trứng sán F.buski trong phân
Điều trị
Nguyên tắc điều trị: điều trị đúng đối tượng sau khi đã chẩn đoán đúng ca bệnh, đúng thuốc đặc hiệu, dùng đúng phác đồ
Các thuốc điều trị: điều trị sán lá ruột lớn có thể sử dụng nhiều loại thuốc như tetracloroethylen, niclosamide, thiabendazole, mebendazole, levamisole, pyrantel pamoate, triclabendazole và hiện nay sử dụng thuốc praziquantel điều trị rất hiệu quả mà liệu trình lại ngắn ngày.
Phác đồ điều trị: praziquantel liều 15-20mg/kg/ ngày (liều duy nhất).
Các biện pháp phòng bệnh:
Truyền thông giáo dục sức khỏe, có thể lồng ghép trong chương trình học đường cùng với một số bệnh giun sán khác;
Không nên ăn sống các loại thực vật thủy sinh như củ ấu, củ niễng, ngó sen, rau xanh,…
Điều trị ca bệnh triệt để (đủ liều, xác định âm tính sau điều trị).
SÁN LÁ RUỘT NHỎ (Haplochis spp.)
Tình hình dịch tễ bệnh sán lá ruột nhỏ trên thế giới và ở Việt Nam
Trên thế giới: sán lá ruột nhỏ ký sinh ở người được thông báo tại một số quốc gia như Nhật Bản, trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan, Lào, Bangladesh, Ai Cập, Sudan, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Tusinia, Isarel, Siberia, Tây Ban, Nha, Brazil, Mỹ,…
Tại Việt Nam: sán lá ruột nhỏ được phát hiện ở 13 tỉnh thành như Yên Bái, Phú Thọ, Bắc Cạn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Lâm Đồng, An Giang.
Thành phần loài:
Bao gồm Haplorchis taichui, Haplorchis pumilio, Haplorchis yokogawai, Procerovum spp, Stellantchasmus falcatus thuộc họ Heterophyidae và Echinostoma spp. thuộc họ Echinostomatidae.
Nguyên nhân gây bệnh
Sán lá ruột nhỏ (Haplochis spp.) thuộc họ Heterophyidae thường ký sinh trong ruột non của người, gia súc, gia cầm. Người và các động vật trên cạn nhiễm loài án này do ăn gỏi, ăn lẩu hoặc ăn cá sống có chứa nang ấu trùng (metacercariae), nên sán lá ruột nhỏ là bệnh truyền qua trung gian cá nước ngọt
Chu kỳ phát triển
Haplochis spp. là loài sán lá ruột nhỏ để hoàn thành vòng đời chúng phải trải qua nhiều loài vật chủ phức tạp (vật chủ chính, vật chủ trung gian) nên thường ít được quan tâm (kể cả y tế, thú y và ngư y). Sán trưởng thành ký sinh ở ruột, đẻ trứng và trứng theo phân ra ngoài, khi trứng rơi vào môi trường nước, trứng nở ra ấu trùng lông chui vào ốc để phát triển thành ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi xâm nhập vào cá nước ngọt, rụng đuôi phát triển thành nang trùng rồi ký sinh ở trong thịt hoặc mang của cá (bằng mắt thường chúng ta khó nhìn thấy ấu trùng nang). Người hoặc động vật ăn phải cá có ấu trùng nang chưa được nấu chín, ấu trùng này chui vào dạ dày, đến ruột phát triển thành sán trưởng thành và ký sinh tại đây.
Tác hại của bệnh:
Tác hại trực tiếp của loài sán này đối với người và động vật không lớn nhưng khi sán ký sinh tạo các vết loét là cửa ngõ cho các tác nhân khác xâm nhập vào cơ thể, chủ yếu sán lá ruột nhỏ chiếm thức ăn, gây rối loạn hấp thu và rối loạn tiêu hóa.
Haplochis spp. là loại ký sinh trùng gây ra bệnh truyền lây giữa động vật dưới nước (cá) và động vật trên cạn (Fish Born Parasite diseases, FZB). Khi cá nhiễm các loại ấu trùng này thường bị giảm chất lượng sản phẩm và giảm giá trị hàng hóa, đặc biệt khi sản phẩm thủy sản được xuất khẩu sang thị trường khó tính như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán lâm sàng: hầu hết bệnh nhân hoặc người nhiễm bệnh không có triệu chứng gì, nếu có chỉ là rối loạn tiêu hóa hoặc người cảm thấy mệt mỏi. Đôi khi chúng ta gặp khi người nhiễm với số lượng lớn sán thì có biểu hiện đau đầu, buồn nôn, viêm ruột, tiêu chảy, sốt nhẹ, phù toàn thân và nặng hơn có thể là tắc ruột.
Chẩn đoán cận lâm sàng: chủ yếu xét nghiệm phân tìm trứng sán lá ruột nhỏ, cần lưu ý phân biệt với trứng sán lá gan nhỏ và trứng giun đũa không thụ tinh. Tuy nhiên, do kích thước sán nhỏ, hình dạng của trứng, ấu trùng (cercariae, metacercariae) và cả thể trưởng thành rất giống với một số loài sán lá khác nên dễ chẩn đoán nhâm, nên sinh học phân tử sẽ giúp giải quyết vấn dề này. Xác định trứng dưới kính hiển vi thường thấy hơn làsán trưởng thành trong phân hoặc trong chất nôn, đây cũng là chẩn đoán đặc hiệu. Trứng sán lá ruột cần phân biệt với trứng sán lá gan lớn Fasciola hepatica hoặc Fasciola gigantica.
Chẩn đoán bằng huyết thanh học:ít sử dụng hơn, chủ yếu trong nghiên cứu.
Chẩn đoán bằng sinh học phân tử: vì trong một tế bào của cơ thể động vật luôn tồn tại 2 hệ gen: hệ gen nhân và hệ gen ty thể, hai hệ gen này hoạt động vừa có tính đọc lập, vừa tương tác và hệ gen ty thể chịu ảnh hưởng điều hòa của hệ gen nhân. Hệ gen nhân tế bào có hệ số đột biến thấp hơn hệ gen ty thể, nên bất kể sự thay đổi nào của các gen cũng có thể dẫn đến sự biến đổi hệ gen có tính chất đặc trưng của loài. Hệ gen nhân chiều hướng bảo tồn rất cao và có giá trị trong giám định. Trong nhân tế bào có một nhóm gen quan trọng là 5,8S; 18S và 28S và vùng nucleotide nỗi giữa các gen đó là ITS-1 và ITS-2 (Internal transcribed spacer) được dùng trong phân tích phân loại.
Nghiên cứu ứng dụng sinh học phân tử đối với các bệnh ký sinh trùng lây truyềnnhằm khắc phục những tồn tại của các phương pháp nghiên cứu cổ điển, là hướng mới được quan tâm trong nhiều năm qua tại nước ta. Mặc dù có nhiều nghiên cứu sinh học phân tử trong giám định phân loại phả hệ và dịch tễ học phân tử một số sán lá, sán dây ở Việt Nam, nhưng đối với Haplochis, đến nay chỉ có một vài công trình nghiên cứu dưới sự tài trợ của dự án FIBOZOPA_Fishborne Zoonotic Parasites: dự án ký sinh trùng lây truyền giữa động vật trên cạn, động vật thủy sinh kể cả người). Qua phân tích các gen này, các nàh khoa học đã kết luận đâu là Haplorchis taichui và Haplorchispumilio qua phân tích gen ITS-2. Rất ít sự sai khác về trình tự nucleotide trong gen ITS-2 của H. pumilio giữa mẫu sán của Việt Nam và mẫu sán của Thái Lan trong nghiên cứu với độ tương đồng đạt 99%; có sự giống nhau hoàn toàn về trình tự sắp xếp nucleotide trong gen ITS-2 của H.taichui giữa mẫu sán Việt Nam và mẫu sán của Thái Lan, giống nhau gần như tuyệt đối.
Điều trị:
Nguyên tắc điều trị: đúng đối tượng khi đã xác định ca bệnh, đúng thuốc và đúng phác đồ.
Thuốc điều trị: trước đây dùng Bithionol song vì độc tính trên người được xem xét nên hiện nay sử dụng thuốc praziquantel
Phác đồ điều trị: praziquantel 40mg/kg/ngày (liều duy nhất)
Các biện pháp phòng bệnh
Dựa vào chu kỳ sống của sán lá ruột mà chọn biện pháp can thiệp vào mắc xích nào của chu kỳ được hiệu quả cao nhất. Trong đó, mắc xích tác động có ý nghĩa thực tiễn và hiệu quả nhất để phòng chống sán lá ruột là biện pháp cắt đứt đường lan truyền từ cá sang người, nên quá trình phòng bệnh như hướng dẫn của bệnh sán lá gan nhỏ:
Bằng cách không ăn gỏi cá hoặc cá nấu chưa chín;
Đồng thời tiến hành điều trị đặc hiệu ca bệnh;
Kết hợp với vệ sinh môi trường (quản lý phân và không cho cá ăn phân người);
Truyền thông giáo dục sức khỏe trên nhiều kênh trong cộng đồng: tổ chức bài giảng ngoại khóa trong cộng đồng, tại các trường học, nhất là vùng lưu hành bệnh; tiến hành tuyên truyền qua hệ thống lao của xã, vận động cộng đồng tham gia phòng chống bệnh sán, thực hiện cam kết bỏ tập quán ăn gỏi cá, có giám sát của y tế địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Văn Đề, Lê Khánh Thuận (2004). Phòng chống bệnh sán lá gan nhỏ. Sán lá gan. Nhà xuất bản y học, tr. 70-95.
2.Kim Văn Vạn, Lê Thanh Hòa và cs (2007). Giám định sán lá ruột nhỏ Haplorchis taichui và Haplorchis pumilio sử dụng chỉ thị ITS-2 (Internal transcribed spacer). Y học thành phố Hồ Chí Minh, chuyên đề ký sinh trùng, tập 11, phụ bản số 2, 2007.
3.Fasciolopsiasis (2007). Stanford.edu, Retrieved on 2007-07-03.
4.Weng YL et al (1989). Studies on ecology of Fasciolopsis buski and control strategy of fasciolopsiasis in Chinese. Zhongguo Ji Sheng Chong Xue Yu Ji Sheng Chong Bing Za Zhi 7 (2): 108–11. PMID 2805255.
5.Graczyk TK et al (2001). Fasciolopsiasis: is it a controllable food-borne disease?. Parasitol. Res. 87 (1): 80–3. doi:10.1007/s004360000299. PMID 11199855.
6.Mas-Coma S et al (2005). Fascioliasis and other plant-borne trematode zoonoses. Int. J. Parasitol. 35 (11-12): 1255–78. doi:10.1016/j.ijpara.2005.07.010. PMID 16150452.