Thuật ngữ “các bệnh truyền qua thực phẩm” (foodborne diseases) bao hàm cả ngộ độc thực phẩm (food poisoning) và nhiễm khuẩn thực phẩm (food infection), biểu hiện bệnh là một hay nhiều triệu chứng /hội chứng mà nguyên nhân do ăn phải thức ăn bị nhiễm bệnh, làm ảnh hưởng đến cá nhân và sức khỏe cộng đồng. Trong số đó có rất nhiều tác nhân gây bệnh, đặc biệt tác nhân vi sinh vật, song không thể không kể đến loài sán lá gan lớn - một căn bệnh rất thời sự.
Sán lá gan lớn fasciola spp gây bệnh sán lá gan lớn (SLGL) ở người và gia súc (dê, bò, cừu, lạc đà) và một số vật chủ khác, gần đây các nhà thú y cho rằng có liên quan đến tình hình nhiễm bệnh SLG là heo, lừa, ngựa, thậm chí cả chuột. SLGL chủ yếu do 2 loài Fasciola hepatica và Fasciola gigantica. Giữa hai loài có đặc điểm riêng về cấu tạo hình thái, nhưng giữa chúng cũng có nhiều điểm tương tự về vòng đời, đường lây nhiễm và gần đây, người ta lại phát hiện chúng có khả năng lây nhiễm ở người (Agatsuma, 2000; Tran VH, 2001), nhiều nhất là vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam chúng ta. Tại Việt Nam, bệnh SLGL rất thường gặp ở các động vật ăn cỏ như trâu, bò và cừu, bên cạnh đó một số trường hợp nhiễm SLGL gặp ở người được công bố đầu những năm 1990s. Một vài nghiên cứu cho thấy Fasciola hepatica rất khó phát hiện, trong khi Fasciola gigantica là loài khá phổ biến ở Việt Nam, ký sinh ở cả động vật, nhất là động vật nhai lại và con người. Kể từ năm 1997, nhờ phương pháp chẩn đoán huyết thanh học ELISA phát hiện kháng thể (antibody), các nhà khoa học đã phát hiện hơn 450 trường hợp nhiễm, đa số họ từ các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên, và một số nghiên cứu gần đây cũng tìm thấy ở các tỉnh miền Bắc.
 |
Bệnh nhân sán lá gan lớn đang điều trị tại Phòng khám chuyên khoa Viện |
Vấn đề đặt ra, phải chăng gần đây có sự thay đổi về điều kiện vi khí hậu, môi sinh, ảnh hưởng đến sự sinh sản của động vật ăn cỏ, khiến mầm bệnh tăng lên hoặc tại hệ thống y tế tỉnh nhà thiếu phương tiện chẩn đoán hiện đại để phát hiện bệnh và bệnh không được các thầy thuốc lâm sàng nghĩ đến, hoặc vả chăng một số cơ sở điều trị chỉ mới dừng lại ở chẩn đoán khối tổn thương abcès gan do amíp hoặc do vi trùng hay nhiều nhất vẫn là chẩn đoán và điều trị theo một hướng loét tiêu hoá hoặc sự bùng nổ của thông tin đại chúngvề sức khỏe phổ cập kiến thức. Tất cả những khía cạnh đó khiến nhiều người có điều kiện tiếp cận và đi khám kiểm tra mới biết mình bị mắc bệnh, từ đó con số bệnh nhân SLGL tăng lên một cách “đột biến”.
 |
Các chuyên gia WHO tìm hiểu bệnh sán lá gan lớn tại Viện và các tỉnh Miền Trung-Tây Nguyên |
| |
|
Hơn 100 năm qua, hầu như bệnh ít được nói đến, trong thực tế Fasciola hepatica gặp trên các loài động vật ăn cỏ ở Cao Bằng (Raillet và Gomy), rồi sau đó tác giả Nguyễn Thị Lê và cộng sự cũng lần lượt gặp ở Hà Nội.
Năm 1993, ít nhất 40 triệu người chủ yếu ở Đông Nam Á được thông báo là nhiễm SLG Trong đó phải kể đến loài sán lá gan quan trọng Fasciola gigantica hoặc Fasciola hepatica gây ra hoặc loài sán lá gan nhỏ (một số tác giả gọi là sán Đông Phương ở châu Á gây ra do Chlonorchis sinensis, Opisthochis viverini hoặc Opithorchis felineus.
Một tỷ lệ không nhiều nhưng phải chú ý rằng bệnh nhân mắc bệnh sán lá gan nhỏ (Opisthorchis viverrini) có nguy cơ dẫn đến viêm xơ đường mật mạn tính hoặc ung thư đường mật (cholangiocarcinome) với tỷ lệ khoảng 0,0037% (Ashan và cs.,2005-Liver fluke-associated cholangiocarcinoma). Song nghiên cứu liên quan giữa bệnh SLGL với ung thư tế bào gan có hay không đến nay chưa có tài liệu nào đề cập, điều này mở ra huớng nghiên cứu cho các chuyên gia ký sinh trùng cần sớm thấu đáo.