Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn vừa thông báo đã phát hiện một bệnh nhân ở huyện M’Đrăk, tỉnh Đăk Lăk bị bệnh sán máng (Schistosomiasis) do bị nhiễm ký sinh trùng loại Schistosoma mansoni. Đây là trường hợp bệnh gây nên do một loại ký sinh trùng rất hiếm gặp tại Việt Nam và bệnh lây truyền qua nguồn nước bị nhiễm bẩn do có nhiều ấu trùng sán máng bơi tự do trong nước xâm nhập qua da vào cơ thể người để gây bệnh. Vì là trường hợp bệnh hiếm gặp nên các cơ sở y tế cần chú ý cảnh giác trong việc phát hiện, chẩn đoán để điều trị bệnh có hiệu quả, góp phần phục hồi sức khoẻ nhanh chóng cho bệnh nhân và có biện pháp chủ động phòng tránh bệnh lây lan cho cộng đồng.
Đặc điểm của bệnh sán máng
|
Ốc nước ngọt họ Planorbidae |
Ốc nước ngọt họ Planorbidae là vật chủ trung gian truyền bệnh ấu trùng sán thuộc giống Schistosoma với mức độ lây nhiễm cao, gây nên bệnh sán máng (Schistosomiasis), hay còn được gọi là bệnh Bilharziasis. Bệnh lưu hành ở một số nước ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ. Mặc dù tử vong do bệnh gây nên chiếm tỷ lệ tương đối thấp nhưng bệnh bị nhiễm khá phổ biến ở vùng dịch tễ lưu hành, có thể làm cho hàng triệu người bị suy kiệt sức khoẻ trầm trọng do mắc bệnh. Bệnh sán máng lưu hành tại những vùng mà ở đó ốc nước ngọt đóng vai trò vật chủ trung gian, nó sinh đẻ và phát triển trong các ổ nước nhiễm phân hoặc nước tiểu những người bị nhiễm bệnh. Người bị mắc bệnh sán máng do tiếp xúc nhiều lần với nguồn nước trong khi đánh bắt cá, trồng trọt, bơi lội, giặt giũ, tắm rửa và các hoạt động vui chơi, giải trí dưới nước ... Ở những khu vực có các nguồn nước lưu thông như hệ thống thuỷ lợi có thể góp phần, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xâm nhập và lan truyền bệnh sán máng.Ốc nước ngọt được xem là vật chủ trung gian vì giai đoạn phát triển hữu tính của ký sinh trùng ở trong cơ thể người, còn giai đoạn phát triển vô tính của ký sinh trùng ở trong cơ thể ốc. Con người cũng đóng vai trò như vật chủ trung gian vì hành vi gây nhiễm mầm bệnh ở môi trường sống.
Bệnh sán máng lưu hành ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong số những bệnh lây truyền qua đường nước thì sán máng là bệnh khá phổ biến, nó làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người sống ở vùng nông thôn của các nước đang phát triển và thường có liên quan đến các loại nghề nghiệp thường xuyên tiếp xúc với nguồn nước bị nhiễm bẩn như trồng trọt, đánh bắt cá hoặc thiếu nước sạch để uống, giặt giũ, tắm rửa ... Việc di biến động dân cư thường xuyên cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền rộng rãi của bệnh và hiện nay bệnh sán máng có khả năng phát triển ở vùng nông thôn và ven thành thị. Mặc dù nhiều người ở vùng bệnh lưu hành đều có thể bị nhiễm bệnh ở mức độ nhẹ, không biểu hiện triệu chứng bệnh lý nhưng ảnh hưởng của bệnh sán máng đối với sức khoẻ của con người, làm suy giảm khả năng lao động và kìm hãm sự phát triền kinh tế của địa phương không phải là nhỏ.
Chu kỳ phát triển và sự lây truyền bệnh sán máng
Có 5 loài sán ký sinh chủ yếu gây ra bệnh sán máng ở người. Schistosoma mansoni gây bệnh sán máng đường ruột (intestinal schistosomiasis) lưu hành ở các nước ở châu Phi, Trung Cận Đông, vùng Caribê và Nam Mỹ. Bệnh sán máng đường ruột châu Á và Phương Đông (Oriental Asiatic intestinal schistosomiasis) do Schistosoma japonicum hoặc Schistosoma mekongi gây ra và lưu hành ở các nước châu Á. Một loại bệnh sán máng đường ruột khác gây ra do Schistosoma intercalatum đã được phát hiện tại các nước ở Trung Phi. Bệnh sán máng bàng quang (urinary schistosomiasis) do Schistosoma haematobium gây ra và lưu hành ở các nước châu Phi và Trung Cận Đông.
Chu kỳ phát triển của sán máng trải qua nhiều giai đoạn. Trứng sán do người bị nhiễm bệnh thải ra vào nguồn nước thiên nhiên, khi tiếp cận với nước trứng sẽ nở và một ký sinh trùng rất nhỏ được hình thành, bơi trong nước nhờ những lông nhỏ (celia) trên cơ thể. Ấu trùng lông (miracidium) sống khoảng 8-12 giờ, trong thời gian đó nó phải tìm được và xâm nhập vào một con ốc nước ngọt thích hợp để tiếp tục phát triển. Ở trong cơ thể ốc, ấu trùng lông thực hiện sinh sản vô tính nhiều lần, sau đó hàng nghìn ấu trùng đuôi (cercariae) được hình thành và chui ra khỏi ốc để sống trong nước. Tuỳ thuộc vào loài ốc, loại ký sinh trùng và điều kiện môi trường, giai đoạn phát triển này thường trong 3 tuần ở những khu vực có khí hậu nóng ấm; ở các vùng khác giai đoạn này có thể kéo dài từ 4 đến 7 tuần hoặc lâu hơn. Ấu trùng đuôi chẻ (fork-tailed cercariae) có thể sống tới 48 giờ ở ngoài cơ thể ốc. Trong khoảng thời gian này, chúng phải tìm kiếm và xâm nhập vào da người để tiếp tục chu kỳ phát triển giai đoạn hữu tính trong cơ thể người. Trong vòng 48 giờ, ấu trùng đuôi phải chui qua da người để tiếp cận với mạch máu. Khi ấu trùng đuôi xâm nhập qua da người, đuôi của nó bị rụng đi, quá trình này có thể gây ngứa nhưng hầu hết mọi người đều không nhận thấy. Trong 7 tuần, ký sinh trùng non phát triển trong cơ thể người để thành sán đực và sán cái trưởng thành. Trứng sán chỉ hình thành ở những con sán cái đã được thụ tinh. Những con sán cái và sán đực trưởng thành dính với nhau suốt đời trong khoảng thời gian trung bình dưới 5 năm, nhưng có trường hợp có thể kéo dài tới 20 năm. Sán cái có hình thể nhỏ hơn sán đực và luôn luôn nằm trong rãnh phía trước cơ thể con đực. Mỗi khi trứng được sinh ra thì chu kỳ phát triển mới lại bắt đầu. Ở bệnh sán máng đường ruột, sán thường bám vào mạch máu ở ruột. Ở bệnh sán máng bàng quang thì chúng sống trong mạch máu của bàng quang. Bình thường có khoảng một nửa số trứng được đào thải ra ngoài cơ thể người bệnh theo phân (sán máng đường ruột) hoặc nước tiểu (sán máng bàng quang); số trứng còn lại trong cơ thể có thể gây nên những tổn thương ở các cơ quan. |
Chu kỳ phát triển của sán máng. Nguồn: CDC |
Triệu chứng lâm sàng khi bị mắc bệnh sán máng
Trứng sán thường không gây phản ứng xảy ra trong phân hoặc nước tiểu mà khu trú ở trong các mô. Các triệu chứng có liên quan đến số lượng và vị trí ký sinh của trứng sán. Bệnh sán máng đường ruột do Schistosoma mansoni, Schistosoma japonicum và Schistosoma mekongi gây ra và thường phát triển chậm. Gan, lách to dần và có những thương tổn xuất hiện ở ruột gây ra bởi các vết thương hoá xơ ở chung quanh trứng sán nằm trong những mô này và làm tăng áp lực mạch máu vùng bụng. Sự chảy máu được lặp đi lặp lại ở những mạch máu dẫn đến xuất hiện triệu chứng có máu ở trong phân và có thể rất nguy hiểm nếu không được chú ý. Loại Schistosoma intercalatum thường gây nhiễm ở phần ống tiêu hoá phía dưới. Bệnh sán máng bàng quang do Schistosoma haematobium gây ra, trứng sán gây tổn thương ở ống tiết niệu và máu xuất hiện trong nước tiểu. Khi đi tiểu tiện, bệnh nhân cảm thấy đau; bàng quang, niệu quản và thận dần dần bị tổn thương. Ở những bệnh nhân nặng có thể gây nên ung thư bàng quang.
Chẩn đoán và điều trị bệnh sán máng
Ngoài các triệu chứng lâm sàng được phát hiện và ghi nhận, việc chẩn đoán bệnh sán máng đường ruột bằng xét nghiệm cận lâm sàng đơn giản là đếm trứng sán trong các mẫu phân. Một lượng nhỏ phân được lọc qua lưới bằng nylon hoặc thép để loại bỏ các chất cặn bả có kích thước lớn, sau đó phân được đặt trên mẫu giấy bóng kính ngâm trong glycerol (kỹ thuật Kato) hoặc giữa hai lam kính (kỹ thuật Glass Sandwich) và xét nghiệm viên chuyên khoa ký sinh trùng có thể soi kiểm tra, phát hiện một cách dễ dàng dưới kính hiển vi. Đối với bệnh sán máng bàng quang, sử dụng kỹ thuật lọc nước đơn giản bằng giấy lọc, màng lọc nylon hoặc polycarbonate; sau đó đếm trứng sán để chẩn đoán định lượng dưới kính hiển vi. Kỹ thuật này đơn giản này trong vòng một giờ có thể đếm được 130 mẫu nước tiểu xét nghiệm. Ngoài phát hiện được trứng sán, có thể thấy triệu chứng có máu trong nước tiểu (haematuria); dấu hiệu này xác định bệnh lý bàng quang do sán máng bàng quang gây ra. Sự kết lắng nước tiểu cũng là một phương pháp đơn giản và hiệu quả để phát hiện trứng sán. Hiện nay, một kỹ thuật hiện đại có thể sử dụng để phát hiện, chẩn đoán bệnh một cách nhanh chóng, dễ dàng, chính xác là phương pháp Elisa.
Tất cả mọi người sống ở vùng dịch tễ sán máng lưu hành đều có thể bị nhiễm sán. Sau điều trị thì khả năng trẻ em có tỷ lệ tái nhiễm bệnh cao hơn người lớn. Các nhà nghiên cứu cũng quan tâm rất nhiều đến việc sản xuất ra vaccin gây miễn dịch để phòng bệnh nhưng khả năng thành công còn rất xa. Hiện nay có 3 loại thuốc dùng để uống bảo đảm an toàn và hiệu quả trong điều trị bệnh sán máng là Praziquantel, Oxamniquin và Metrifonat đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa vào danh sách các thuốc thiết yếu. Dùng một liều độc nhất Praziquantelcó hiệu quả chống lại tất cả các loại sán máng. Những tổn thương không phục hồi trước đây do bệnh nhiễm sán máng gây ra ngày nay có thể điều trị thành công bằng Praziquantel. Thuốc Oxamniquin chỉ dùng để điều trị sán máng đường ruột ở châu Phi và Nam Mỹ mặc dù Schistosoma mansoni ở châu Phi kém nhạy cảm với Oxamniquin so với ở Nam Mỹ. Metrifonat lúc đầu được sản xuất với vai trò như là một loại thuốc diệt côn trùng, hiện nay nó đã tỏ ra an toàn và hiệu quả trong điều trị bệnh sán máng bàng quang.
Việc xác định, chẩn đoán nhanh chóng và điều trị sớm những người bị bệnh sán máng sẽ làm giảm ngay sự nhiễm bẩn nguồn nước ở môi trường với trứng sán. Trên thực tế, ở một số nơi đã thực hiện được việc làm giảm số bệnh nhân trong vòng một năm rưởi mà không cần một biện pháp can thiệp nào thêm. Ở một số vùng có sự lây truyền bệnh liên tục thì những nhóm tuổi nhất định như học sinh có thể bị tái nhiễm trong vòng 4-6 tháng. Mặc dù có tình trạng tái nhiễm nhưng tỷ lệ mắc có thể giảm trong một thời gian dài hơn vì sự mắc bệnh là hậu quả của sự nhiễm kéo dài với một lượng lớn ký sinh trùng.
Phòng tránh và cảnh báo mắc bệnh sán máng
Về nguyên tắc, biện pháp bảo vệ cá nhân khỏi bị nhiễm bệnh sán máng có hiệu quả nhất có thể thực hiện được bằng cách tránh tiếp xúc với nguồn nước bị nhiễm bẩn, không an toàn. Việc này đòi hỏi sự hiểu biết về nguy cơ bị nhiễm bệnh khi tiếp xúc với nguồn nước và hiểu biết về những thuỷ vực có loài ốc nước ngọt mang mầm bệnh sinh sống. Với những người sống trong vùng lưu hành bệnh, việc tiếp xúc với nguồn nước là không thể tránh được như những người làm ruộng, đánh bắt cá ... hoặc khó ngăn ngừa như trẻ em tắm rửa, chơi nghịch nước ... Phòng, chống bệnh ở những ổ bệnh được xác định có sự lây truyền là việc có thể làm được bằng cách áp dụng một biện pháp hay kết hợp các biện pháp như tăng cường phát hiện và điều trị những người có nguy cơ bị bệnh; cải thiện các phương tiện vệ sinh an toàn để có thể kiểm soát chất thải của con người như phân, nước tiểu; cung cấp nước sạch trong sinh hoạt; giảm sự tiếp xúc với nguồn nước bị nhiễm bẩn và phòng chống ốc nước ngọt có khả năng là vật chủ trung gian truyền bệnh.
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn mới phát hiện một bệnh nhân bị mắc bệnh sán máng do bị nhiễm Schistosoma mansoni tại huyện M’Đrăk, tỉnh Đăk Lăk thuộc khu vực Tây Nguyên đã được các cơ quan chuyên môn khác có liên quan xác định. Mặc dù đây là một trường hợp bệnh ký sinh trùng hiếm gặp tại Việt Nam nhưng các cơ sở cần quan tâm, chú ý và cảnh báo để phát hiện bệnh, chủ động tổ chức tốt công tác phòng, chống bệnh hiệu quả vì bệnh có thể có khả năng lây truyền bệnh cho cộng đồng dân cư.