Hiện nay, về lĩnh vực thực hành điều trị bệnh giun sán tại các quốc gia thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới gặp phải nhiều thách thức do tình hình kháng trị với thuốc điều trị bệnh giun, sáncả trong y tế thú y và sức khỏe con người (nhất là ký sinh trùng giun móc, mỏ và sán máng); thực tế còn nhiều bằng chứng chưa rõ ràng để giải thích KST kháng với một số thuốc điều trị giun sán đang dùng, song là một vấn đề y tế đáng quan tâm vì đang nổi trội. Kháng thuốccó thể hoặc do đột biến mới hoặc do lựa chọn những dòng KST có tính dung nạp bẩm sinh (innately tolerant strains). Tuy nhiên, những kinh nghiệm về tác nhân gây nhiễm KST khác, đặc biệt các tác nhân làm tình trạng kháng thuốc lan rộng và nhanh chóng như KTGS ở gia súc, nên cảnh báo cho giới y học cân nhắc tình trạng sử dụng thuốc điều trị giun sán rộng rãi nhằm mục đích nào đi nữa cũng phải chú trọng kháng.
-Việc phòng bệnh giun sán trên người dựa vào thuốc có thể khác với phòng bệnh gia súc: động lực lan truyền bệnh phức tạp hơn (đặc biệt sán máng và giun chỉ); điều trị có thể có tần sốvà độ bao phủ thấp hơn; các chiến lược khác nhau đưa ra nhằm làm giảm sự xuất hiện hoặc chậm dẫn đến lựa chọn dòng kháng. Tuy nhiên, đây là các giả định mang tính chủ quan, điều này có thể làm chậm nhưng có khả năng không tránh khỏi sự xuất hiện của KTGS. Những tương đồng về sinh học, dịch tễ học và dược lý học giữa giun sán trên người và gia súc là quá lớn song chúng ta không có thể ngờ rằng việc phiên giải kết quả mà chúng ta đang làm là chưa đúng;
Ý nghĩa kháng thuốc giun sán trên gia súc và trên người hoàn toàn khác: trên gia súc, vấn đề chủ yếu là kinh tế rất nghiêm trọng; ngược lại trên người, việc kháng thuốc lan rộng sẽ là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng. Hiện tại, chỉ có điều đập vào mắt chúng ta rõ nhất là thiếu các công cụ cần thiết để phát hiện KTGS ở người và không có biện pháp giải quyết vấn đề hiệu quả một khi chúng được phát hiện. Hướng này không mấy sáng sủa mà ngược lại là lo lắng cho các nhà khoa học. Dưới đây là một số lời khuyên và là khuyến cáo nhằm phòng tránh kháng trị với thuốc giun sán hoặc ít ra là làm chậm sự kháng thuốc lan tràn trong thời gian nhất định do các chuyên gia điều trị bệnh ký sinh trùng ở vật nuôi, gia súc và cho người, nếu chiến lược dựa vào thuốc được thực hiện đầy đủ thì các hướng dẫn sau đây có thể làm chậm sự phát triển của kháng thuốc giun sán:
(i)Những biện pháp can thiệp nên đánh trúng đích và cần điều chỉnh cho phù hợp:
Điều trị hàng loạt một cách bừa bãi và phải có một đợt sàng lọc trong quần thể trước đó, nên áp dụng chỉ ở những vùngvà nhóm người mà nơi đó tác động của giun sán và lợi ích mang lại có giá trị hơn chi phí và gánh nặng bệnh tật của hệ thống y tế, phù hợp trong một nhóm yếu tố bền vững của hệ thống chăm sóc y tế tại đó; tính toán cân đối giữa chi phí và lợi ích phải được đặt ra, xem xét mọi khía cạnh tình hình của các thông số về chất và lượng, điều này hiện nay chưa có mô hình rành mạch;
(ii)Các biện pháp phòng chống nên phối hợp nhau:
Mặc dù có chương trình GDSK, công trình xây dựng hố xí, cải tạo nguồn nước vẫn là điều khó khăn hơn nhiều so với các chương trình điều trị, nhưng chúng lại tác động rất lớn đến sức khỏe cộng đồng khó tạo các yếu tố bền vững trong chương trình phòng chống giun sán và cho phép con số đối tượng điều trị giảm rõ rệt. Điều trị hàng loạt thì dễ (rất phổ biến hiện nay) và phổ biến nhưng có thể giảm hoặc bỏ qua các tiến bộ khoa học trong quá trình nâng cao đời sống của người dân tại chỗ;
(iii)Số lần điều trị hàng loạt nên giảm đến mức cần thiết:
Hướng hiệu quả nhất để trì hoãn sự phát triển của KTGS vẫn là làm sao giảm sự lựa chọn áp lực thuốc, đặc biệt số lượt điều trị, tốt nhất là cho điều trị 1năm/ 1 lần. Hiển nhiên, khi giảm tần số điều trị thì nên phối hợp với các biện pháp phòng chống khác để mang lại hiệu quả tốt nhất. Tác giả Albonico và cộng sự khuyên rằng nếu điều trị 2-3 lần/ năm, hậu quả là sinh ra quá trình KTGS rất nhanh (kinh nghiệm trên gia súc);
(iv)Tránh cho phơi nhiễm giữa thuốc với toàn bộ quần thể ký sinh trùng:
Vì đó chính là mô hình kích thích tạo kháng, giới hạn phơi nhiễm thuốc-quần thể KST sẽ trì hoãn phát triển kháng là điều ai cũng rõ. Điều trị nhóm đích chẳng hạn, sổ giun cho lứa tuổi học đường có khuynh hướng là điều trị hàng loạt rộng rãi, mặc dù điều này đạt được mục tiêu chương trình là hiệu quả cao, song chương trình như thế làm cho hơn 50% quần thể KST phơi nhiễm thuốc chống giun sán; thời điểm điều trị trong mùa lan truyền bệnh thấp dường như có thểhiệu quả tránh được tái nhiễm nhưng điều đó có thể góp phần gây ta kháng thuốc;
(v)Nên dùng đúng liều thuốc:
Liều thuốc thấp hơn trong chương trình phòng chống giun sán để giảm bệnh tật đã thành chủ trương giảm chi phí nhưng nên tránh để ngăn ngừa hoặc trì hoãn kháng thuốc. Thực tế, chi phí thuốc chỉ là một phần nhỏ của chương trình điều trị. Một vài liều thuốc được khuyến cáo hiện nay bao gồm PZQ liều 40 mg/kg, IVM liều 150 µg/kg, mebendazole liều 500 mg và albendazole liều 200 mg hoặc 400mg đều thật sự là dưới liều điều trị khỏi (subcurative). Về mặt quản lý, biết rằng liều cao hơn sẽ dẫn đến chi phí cao hơn, thời gian hữu dụng của thuốc cho cơ thể sẽ kéo dài nhưng cũng nên đầu tư; liều lượng thuốc không đúng do thuốc giả hoặc kém chất lượng nên tránh bằng cách lựa chọn các cơ sở bán thuốc sỉ có uy tín và thuốc đạt chất lượng chuẩn để mang đến cho hệ thống chăm sóc y tế quốc gia hoặc cũng cấp cho một chương trình phòng chống giun sán. Dĩ nhiên, một nhu cầu cấp thiết là phải cho hệ thống quản lý chất lượng thuốc thực hiện kể cả trong YTTN lân YTNN;
(vi)Vấn đề sử dụng một số loại thuốc khác đồng thời:
Dùng đồng thời 2 hay nhiều thuốc với cơ chế tác dụng khác nhau cũng có thể làm chậm sự phát triển kháng của mỗi thuốc đơn độc đang sử dụng. Tuy nhiên, tăng chi phí điều trị là một trở ngại lớn. Thay thế một thuốc ít hiệu quả hơn quay vòng lệ thuộc vào các phân loại thuốc khác nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, các chiến lược phụ thuộc riêng biệt vào cơ chế quản lý của thuốc đó duy nhất trong nhiều năm liên tục, như kinh nghiệm từ chương trình phòng chống sán máng và bệnh giun chỉ onchocerciasis hiện tại dường như gây ra hậu quả kháng thuốc;
(vii)Tình hình quá trình kháng thuốc nên được giám sát:
Là một hoạt động bắt buộc với quy mô lớn trong chương trình phòng chống giun sán. Nhưng để làm rõ và hoạch định đúng điều này thì đến nay chưa có một biện pháp nào chuẩn và đáng tin cậy để phát hiện.Do vậy, chiến lược thích hợp nhất dường như chưa bắt tay vào được và các chiến lược phòng chống dựa trên các việc sử dụng rộng rãi và tần số sử dụng thuốc giun sán và để hạn chế sử dụng bớt thuốc điều trị tận gốc và can thiệp đối tượng đíchtrên những nhóm hoặc vùng có nguy cơ rất cao thì chưa sâu rộng. Cần thiết đẩy mạnh hệ thống CSSKBĐ và ưu tiên chương trình phòng chống giun sán. Song song, các ngành khoa học tiến hành nghiên cứu các biện pháp hiệu quả và protocol thích hợp để phát hiện một cách đáng tin cậy và nhanh chóng tình trạng kháng thuốc giun sán trên người.