Myrrh là một chất nhựa thơm, có tên khoa học là Commiphora myrrha (T. Nees), tên tiếng Anh là Commiphora abyssinica (Bevg.) hoặc Commiphora molmol, họ Burseracea, tên thường gọi thông dụng là African myrrh (C. habessinica), Somali Myrrh (C. molmol ), Arabian và Yemen myrrh (C. abyssinica), myrrha, myrrhe, gum myrrh, bola, bal, bol, heerabol tùy theo tên gọi của từng vùng và từng quốc gia khác nhau. Myrrh là một loại thảo dược rất tốt, giúp loại bỏ các chất cặn bả ra khỏi đường ruột, nhiễm trùng răng miệng, nhiễm nấm và một số ứng dụng khác. Myrrh có thể gây sỏi thận nếu dùng nó trong một thời gian dài, vì thế nên ngắt quãng khi cần thiết phải dùng trong thời gian lâu dài.
Myrrh từ lâu được dùng như một loại nước hoa trong ngành thẩm mỹ và như một chất hương liệu trong thực phẩm và nước giải khát. Chúng cũng được dùng làm chất làm se niêm mạc (astringent),như chất sát trùng, chống nhiễm khuẩn tại các vết thương viêm nhiễm tại họng và miệng hoặc đóng vai trò như một thuốc điều kinh (emmenagogue) và chất chống co thắt (antispasmodic), thuốc này còn dùng để điều trị ung thư và các bệnh nhiễm trùng khác. Myrrh cũng có vai trò tiềm tàng trong điều trị bệnh sán máng và sán lá gan lớn. Tuy nhiên, các thông tin lâm sàng vẫn còn hạn hữu. Myrrh có thể chỉ định dùng bằng nhiều cách khác nhau như dạng cồn bay hơi, chất bột trong điều trị nha khoa, nước trà, nửa hoặc nước súc miệng, về các chống chỉ định hiện các nhà khoa học chưa nghiên cứu và thông báo đầy đủ. Như một số hoạt chất khác, trong thời gian có thai hoặc đang cho con bú thì các tác dụng có hại đã có báo cáo và trình bày trên mô hình động vật, nên tránh sử dụng, Myrrh đã được ghi nhận là một chất điều kinh và chất có thể làm sẩy thai (abortifacient).
Myrrh có thể tương tác với thuốc warfarin và dẫn suất coumarin, kết quả là làm giảm tỷ lệ ỈN (international normalized ratio). Các tác dụng phụ của Myrrh có thể gặp nhưng chỉ nhekj và thoáng qua, không cần can thiệp y tế, một số ca viêm da đã được ghi nhận. Độc tính chưa ghi nhanạ có trường hợp nào gây độc nghiêm trọng.
Về mặt thực vật học
Các loài Commiphora được bảo tồn như nguồn những nguồn dược liệu thơm, từ các cây rấtnhỏ, cao chứng 3 mét, chúng mọc tự nhiên ở châu Phi, các quốc gia trung Đông và khu vực NamẢ Rập. các chất nhựa nhầy màu vàng trắng nhạt tiết ra từ vết cắt tự nhiên hoặc các vết nứt khi thu hái nguyên liệu. khi không khí khô, chất tiết này cứng đóng thành các khối màu nâu đỏ chứa nhiều mảng trắng. rồi từ đó hình thành nên gôm myrrh. Myrrh thường được thu hoạch vào những tháng mùa hè. Các cây dạng như Commiphora mukul hoặc giả “myrrh” sẽ không cung cấp hoặc cho ra các nguồn myrrh, nhưng có guggulu resin.
Lịch sử của chất Myrrh
·Myrrh đã được sử dụng đã 3 thế kỷ nay với mục đích y học. Về mặt y học, thì đây là chất làm săn niêm mạch, chất chống nhiễm trùng, chống ký sinh trùng, chống ho, điều kinh, chống co thắt. Hợp chất của thuốc dùng để điều trị giun, vết thương, nhiễm trùng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên
·Myrrh cũng đã được báo cáo là điều trị goutte, nhức đầu, vàng da, viêm nhiệt miệng, suy nhược và liệt.Myrrh đã được dùng điều trị nhiều bệnh nhiễm trùng khác nhau, bao gồm phong, giang mai và ngay cả điều trị ung thư;
·Người Trung Hoa đã dùng myrrh để xử lý các bệnh về da và nhiễm trùng ở miệng. Trong suốt thế kỷ thứ 10, chất myrrh dùng để bảo vệ chống lại dịch hạch khi con người đi du lịch đến các vùng lưu hành bệnh;
·Người Ai Cập và Đức cho rằng thuốc này có hiệu quả trong điều trị rắn cắn và đến nay vẫn còn dùng tại đông Phi. Myrrh là một trong những chất điều trị đầu tiên chứng ho trẻ em. Ngoài ra, myrrh còn dùng để ướp xác và bảo quản xác khỏi thối rửa. Các chất kem lót chứa myrrh dùng như chất tẩy rửa, làm ẩm và điều trị các vết thương ở da, làm nước hoa. Myrrh đóng vai trò quan trọng trong các nghi lễ tôn giáo của người Ai Cập cổ đại;
·Trong thuyết giảng phúc âm, myrrh được xem là một trong 3 món quà (ngoài vàng và hương tràm) để trình lên chúa Jesus vào ngày sinh của chúa (Matthew 2:11) và có thể trộn vào rượu để tặng chúa Jesus (Mark 15:23). Các món quà này còn được xem như những món quà quý hiếm và đắt giá;
·Myrrh góp phần vào nền y học cổ truyền của châu Phi, các quốc gia Trung Đông và Trung Hoa. Thuật ngữ “murr” của người Ả Rập có nghĩa là đắng và mô tả mùi vị của myrrh và mùi thơm. Ngày nay, chất myrrh được chế thành các sản phẩm nước thơm và săn da niêm mạc trong các chế phẩm làm nước súc miệng. Đôi khi còn dùng như các nước giải khát và thức ăn. Ngườ Pháp và người Anh tiếp tục sử dụng hỗn hợp chất để điều trị ho và trĩ dưới các dạng viên ngậm và nhét hậu môn.
Về mặt hóa học
Myrrh là một chất giống như gôm nhựa thông (oleo-gum-resin) thu được từ chất C. molmol 3 , 4 mà gồm có 6-10% dầu bay hơi, chủ yếu là các thành phần sesquiterpenes, sterols, steroids. Tỷ lệ chất gôm hòa tan được trong nước là 30-60%, chứa polysaccharides và proteins và chất nhựa hòa tan được trong ethanol (25-40%). Sau khi thủy phân, chất gôm sinh ra nhiều đường khác nhau. Furanosesquiterpenes có vai trò như chất làm thơm của myrrh và người ta có thể làm ra chất gây mê, chất kháng khuẩn, chất kháng nấm và hiệu quả làm hạ đường huyết.
 |
Commiphora molmol- Mirra, Myrrhe |
Ngoài ra, 2 sesquiterpenes, furaneudesma-1-3-diene và curzarene, chiết từ C. molmol có hoạt tính trên các receptor với nhóm opies trên hệ thần kinh trung ương. Chất gôm còn chứa nhiều oxidase enzyme. Chất C. guidottii chứa nhiều sesquiterpene (+)-T-cadinol. Khi chất gôm này hòa tan trong nước sẽ tạo ra các dạng nhũ dịch.
Myrrh được xem là một trong những cây thuốc cổ nhất và được sử dụng rộng rãi bởi các thầy thuốc Ai Cập cổ nhằm mục đích bảo quản xác hay ướp xác (mummification). Hiệu quả trên in vitro của bất kỳ thuốc nào cũng được giám sát và theo dõi phản ứng co cơ của sán, giun bằng một thiết bị đặc biệt. Ngoài ra, nghiên cứu siêu cấu trúc của sán sau khi cho thuốc điều trị trên in vitro có thể xác định được cơ chế gây chết của sán. MIRAZID 300 mg SGC là thuốc điều trị lý tưởng cho bệnh sán máng và sán lá gan lớn. Song các nghiên cứu hiện nay vẫn còn cho các kết quả trái ngược nhau. Dưới đây là một số kết quả của các công trình nghiên cứu về chất myrrh hoặc thuốc biệt dược Mirazid 300mg trong hiệu quả điều trị cũng như tính an toàn trên các sán lá như sán lá gan lớn và sán máng.
Thử nghiệm lâm sàng thuốc Mirazid
trong điều trị bệnh sán lá gan lớn và sán máng ở người
Thử nghiệm lâm sàng điều trị sán lá gan lớn ở người
Nhóm tác giả gồm Abo Madyan, Morsy, Motawea, Morsy, nghiên cứu thử nghiệm hoạt chất mirazid để điều trị sán lá gan lớn trên người, tại Ezbet El-Bakly (trung tâm Tamyia), khu tự trị Al-Fayoumorate. Kết quả được đăng tải trên tạp chí J.Egypt Soc.Parasitol. tháng 12.2004; 34(3): 807-18. Đây là một nghiên cứu thực địa tại vùng Ezbet El-Bakly, khu tự trị Al-Fayoum, Ai Cập để đánh giá hiệu lực và tính an toàn của Mirazid trong điều trị bệnh sán lá gan lớn ở người. Trong số 1.019 bệnh nhân được xét nghiệm để điều tra về bệnh ký sinh trùng, có khoảng 1.7% nhiễm sán lá gan lớn và chỉ số trứng trung bình là 33.2 trứng/ gam phân. Khoảng 23.5% số bệnh nhân sán lá gan là khôngcó triệu chứng. Các triệu chứng gặp với tần suất cao nhất là đau co thắt bụng, đầy hơi (76.5%), đau hạ sườn phải (17.6%) và đau vùng thượng vị (17.6%). Dấu chứng xanh xao chiếm tỷ lệ cao nhất (52.9%), có thắt hố chậu phải (23.5%) và vàng da nhẹ (17.6%).
Tất cả bệnh nhân được điều trị bằng Mirazid liều 2 viên nang (600mg) vào lúc bụng đói 1 giờ trước khi ăn sáng, trong 6 ngày liên tiếp và sau đó theo dõi các triệu chứng lâm sàng cũng như về chỉ số ký sinh trùng. Tỷ lệ sạch ký sinh trùng ở thời điểm 2 và 3 tháng sau điều trị là 88.2% và 94.1% với cải thiện lâm sàng rõ mà chưa thấy tác dụng phụ nào. Các trường hợp mà không đáp ứng hoàn toàn với liệu trình điều trị đầu tiên cũng đã biểu hiện giảm cường độ trứng. Người ta kết luận rằng thuốc Mirazid (hay dẫn suất Myrrh của Commiphora molmol) là an toàn và hiệu quả trong điều trị bệnh sán lá gan lớn ở người trong điều kiện thực địa.
Liệu pháp điều trị của Mirazid trên bệnh nhi nhiễm sán máng và sán lá gan lớn đường ruột
Một nhóm nghiên cứu gồm Soliman OE, El-Arman M, Abdul-Samie ER, El-Nemr HI, Massoud A. đang công tác tại khoa nhi, đại học y khoa, đại học Mansoura, Ai Cập tiến hành một nghiên cứu đánh giá hiệu lực thuốc trên 21 trẻ em nhiễm sán lá gan lớn (8 nam và 13 nữ), tuổi trung bình 10.4và 8 trẻ em nhiễm sán máng loại Schistosomiasis mansoni (6 nam và 2 nữ), tuổi trung bình 11.37 được điều trị bằng thuốc Myrrh (Mirazid) là một loại oleo-gum resin trích từ cây Commiphora molmol (họ Burseraceae) và 10 đứa trẻ khỏe mạnh làm nhóm chứng. Chẩn đoán dựatrên việc phát hiện trứng sán Fasciola hepatica hoặc Schistosoma mansoni trong phân bằng kỹ thuật Kato-Katz. Mirazid được cho liều 10 mg/kg/ngày vào 1 giờ trước khi ăn sáng trong vòng 3 ngày liên tiếp để điều trị sán máng và 6 ngày để điều trị sán lá gan lớn. Đánh giá về mặt lâm sàng và mặt ký sinh trùng ngay từ đầu và vào lúc 2, 4 và 12 tuần sau điều trị để đánh giá tỷ lệ chữa khỏi. mẫu bệnh phẩn cắt ra từ trực tràng (rectal snip) để đánh giá đáp ứng trong bệnh sán máng schistosomiasis và nhằm để xác định sự hồi phục. Đếm công thức máu toàn phần, bạch cầu ái toan thường quy, hàm lượng IgE huyết thanh (qua thử nghiệm enzyme immunoassay) và thử nghiệm cytokine trên in vitro (IL-1 beta, IL-4, IL-5) bằng kỹ thuật ELISA, phân tích trên tất cả các đối tượng trước khi điều trị và lặp lại sau 12 tuần cho những bệnh nhân sau điều trị.
Kết quả cho thấy:
-Tỷ lệ chữa khỏi ký sinh trùng (parasitologic cure) là 90.9% đối với sán lá gan lớn và 100% đối với sán máng ở thời điểm 4 tuần sau điều trị;
-Sau khi liều thứ 2 cho các bệnh nhân nhiễm Fasciola spp. sau điều trị theo dõi vẫn còn dương tính. Tổng lượng IgE cao hơn có ý nghĩa giữa bệnh nhân nhiễm Fasciola và bệnh nhân nhiễm sán máng trước điều trị khi so với nhóm chứng (lần lượt p < 0.001; 0.005) và giảm đi một cách có ý nghĩa sau khi điều trị (p = 0.001; 0.036);
-IL-1beta cao hơn so với bình thường ở cả hai nhóm bênh nhân so với các nhóm chứng (p < 0.001; 0.003) và giảm đi có ý nghĩa sau 12 tuần điều trị so với nhóm chứng (p < 0.001; 0.017);
-IL-5 cao ở thời điểm chưa điều trị trên cả 2 nhóm (p = 0.041; 0.027) và giảm đáng kể sau 12 tuần điều trị (p = 0.005; 0.012);
-IL-4 không khác biệt so với nhóm chứng trước khi điều trị (p = 0.58; 0.79) nhưng tăng lên đáng kể sau khi điều trịở cả hai nhóm bênh nhân (p = 0.04; 0.02).
Người ta kết luận rằng thuốc Mirazid hiệu quả trong diệt sán lá gan lớn và sán máng. Thành phần IL-1beta và IL5 đều cao trong bệnh nhân sán lá gan lớn và sán máng, nhưng giảm đi sau khi điều trị do cơ chế bệnh sinh miễm dịch. Riêng quá trình sinh IL-4 giảm có thể do cơ chế xâm nhập ký sinh trùng gây ra đáp ứng miễn dịch hoặc cơ chế điều hòa của vật chủ và thành phần cytokinecó thể xem là một tiêu chuẩn đánh giá chữa khỏi.
Hiệu lực điều trị của Mirazid so với Praziquantel trên nhóm trẻ em Ai Cập nhiễm S.mansoni
Nhóm tác giả gồm Sanaa Botros, Hanan Sayed, Howaida El-Dusoki, Hoda Sabry, Ibrahim Rabie, Maged El-Ghannam, Moataz Hassanein, Yehia Abd El-Wahab, Dirk Engels, hiện đang công tác tại Viện Theodor Bilharz Research Institute, Warrak El-Hadar, Giza, Ai Cập, Bộ Y tế và Dân số, Cairo, Ai Cập; Tổ chức Y tế thế giới, tại Geneva, Switzerland. Thử nghiệm này đánh giá hoạt tính chống lại sán máng của chất Mirazid khi so sánh với thuốc Praziquantel trên các trẻ em nhiễm Schistosoma mansoni ở Ai Cập. Quần thể mẫu gồm 1.131 bệnh nhân (459 trẻ em lứa tuổi đi học và672 thành viên gia đình). Sàng lọc S. mansoni được tiếnh hành thông qua sử dụng kỹ thuật Kato Katz chuẩn. 4 lam được lấy từ 1 mẫu phân đem xét nghiệm trước khi điều trị và 4 lam cho mỗi mẫu phân lấy trong 3 ngày điều trị liên tiếp để đánh giá sau điều trị. Tất cả các bệnh nhân dương tính đều đuowjc chia thành 2 nhóm ngẫu nhiên:
Nhóm 1 điều trị bằng mirazid liều 300mg/ ngày trong 3 ngày liên tiếp;
Nhóm thứ 2 điều trị bằng Praziquantel liều duy nhất 40mg/ kg.
Tất cả bệnh nhân điều trị đều được kiểm tra sau điều trị 4-6 tuần. Mirazid cho thấy tỷ lệ chữa khỏi là thấp, lần lượt 9.1% và 8.9% trên các trẻ em nhiễm sán máng S. mansoni lứa tuổi học đường và thành viên cùng hộ gia đình. So với tỷ lệ chữa khỏi lần lượt ở nhóm trẻ đi học và thành viên trong hộ điều trị bằng Praziquantel là 62.5% và 79.7%. Do đó, người ta không khuyến cáođiều trị bằng thuốc Mirazid trong bệnh sán máng.
Hiệu quả Mirazid chống lại các giai đoạn phát triển khác nhau của Schistosoma mansoni và tính an toàn của chúng trên chuột.
Nhóm nghiên cứu gồm các tác giả Ebeid, F., El-Lakkany, N., El-Din, S. S., Sabra, A. N., Noseir, M. và cộng sự thuộc khoaDược, Viện nghiên cứu Theodor Bilharz, Guiza, Ai Cập tiến hnàh một công trình nghiên cứu và kết quả được đăng tải trên tạp chí Egyptian Journal of Schistosomiasis and Endemic Infectious Diseases. Nghiên cứu tập trung đánh giá tính an toàn của thuốc Mirazid trên các con chuột bình thường và hiệu lực của thuốc trên các giai đoạn khác nhau của sán máng S. mansoni. Tính an toàn của Mirazid đã được thử nghiệm khi chỉ định dùng đường uống Mirazid (5% LD50 5 ngày /tuần) trong thời gian một tháng. Thân trọng của các con vật đượcghi nhận trước khi cho uống thuốcvà ghi nhận lại hàng tuần trong suốt quá trình theo dõi. Các động vật đã chết 1 tháng sau khi cho Mirazid, các cơ quan sống được cân nặng, các dấu hiệu phân tích về mặt mô bệnh học và đánh giá chức năng gan và thận cũng được làm.
Sau khi điều trị Mirazid, các chức năng gan và thận được so sánhvới các giá trị thông số trên các con chuột bình thường, cho thấy có một sự giảm rõ về thân trọng của chuột vào thời điểm cuối điều trị. Ngoài ra, xét nghiệm mô bệnh học các cơ quan sống cho thấy có sự khuyết và sói mòn niêm mạc ruộtvà có dấu loét nông tại đó.
Tác dụng của Mirazid chống lại các giai đoạn phát triển của sán S. mansoni đã được nghiên cứu trên 7 nhóm chuột gây nhiễm sán (80 cercariae/chuột) được điều trị 2 ngày và thời điểm 1, 2, 3, 4, 5 và 7 tuần sau nhiễm với liều 300 mg/kg/ngày trong 5 ngày liên tiếp sau khi cho nhịn qua đêm. Tất cả chuột đã chết 9 tuần sau nhiễm. Các dữ liệu chỉ ra rằng Mirazid không làm giảm đáng kể tổng số sán trong tất cả các nhóm điều trị so với các nhóm không điều trị. Tỷ lệ giảm sán là rất khiêm tốn (6%-22%). Lượng trứng trong mô và tỷ lệ phần trăm của các giai đoạn phát triển trứng sán S. mansoni được so sánh với nhóm không điều trị.
Nhìn chung, mirazid tương đối an toàn và hiệu quả rất ít trên các giai đoạn phát triển khác nhau của sán S. mansoni.
Hiệu lực điều trị của Mirazid trên 2 loài sán máng
Myrrh và gồm aloe tỏ ra có hiệu quả trong việc làm tăng dung nạp glucose ở các con chuột bình thường và chuột đái tháo đường trong một nghiên cứu (A-Awadi và Fumaa). Bệnh sán máng là một bệnh nhiễm ký sinh trùng sán ở máu, có lưu hành khắp châu Á, châu Phi và châu Mỹ.
Hiện tại, điều trị sán máng là sử dụng chủ yếu bằng praziquantel, song đã có nhiều số liệu cho thấy kháng với thuốc này, do đó các nhà nghiên cứu đã hướng đến một loại thuốc để thay thế. 204 bệnh nhân nhiễm bệnh này đưa vào nghiên cứu, nhưng 12 ca trong số đó đã được điều trị bằng praziquantel. 4 trong số 12 ca không thể uống praziquantel do nôn ngay sau khi cho thuốc uống. 2 loại ký sinh trùng khác cũng đã được tìm thấy trong những ca này là S. haematobium và S. mansoni. Một số bệnh nhân nhiễm 2 loại và một số nhiễm chỉ 1 loại. Myrrh được cho liều 10 mg/kg trong 3 ngày cho tất cả bệnh nhân, tỷ lệ chữa khỏi 91.7%. trong 12 ca đã nhận điều trị trước đó cũng chohiệu quả chữa khỏi 100%. Điều trị lại cho những ca không đáp ứng với liều đầu tiên (tỷ lệ chữa khỏi chỉ 76.5%), tăng tỷ lệ chữa khỏi toàn bộ lên 98.09%. Kết luận thuốc điều trị dung nạp tốt với tác dụng phụ thấp, chỉ nhẹ và thoáng qua không cần can thiệp y tế. 20 người tình nguyện khỏe mạnh được cho uống cùng liều như trên cũng báo cáo không có tác dụng phụ đáng kể (Sheir và cs).
Một nghiên cứu khác tại đại học Cairo, Ai Cập gồm 1019 cá nhân nhiễm 2 loại ký sinh trùng này, Mirazid (chứa 8 phần resin và 3.5 phần dầu bay hơi) được chỉ định coh bệnh nhân uống. Liều dùng là 2 viên nang 600mglúc bụng đói, 1 giờ trước khi ăn sáng trong vòng 6 ngày. Thời điểm 3 tháng sau điều trị, hiệu quả điều trị là 97.4% trên S. haematobium và 96.2% trên S. mansoni mà không thấy báo cáo tác dụng phụ nào. Các dữ liệu chứng minh rằng tỷ lệ giảm trứng rất đáng kể, các nhà nghiên cứu đã kết luận Mirazid là thuốc điều trị an toàn và hiệu quả (Abo-Madyan, Morsy và Motawea).
Hiệu lực của chất trích từ cao myrrh trên sán máng và sán lá gan lớn
Một vấn đề tương tự hiện nay đang ở Ai Cập là thực trạng nhiễm sán lá gan lớn trên trâu, bò, cừu và các gia súc khác. Con người có thể nhiễm loại ký sinh tùng này do ăn uống các thức ăn như rau và thịt nhiễm phải ấu trùng sán. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Cairo, Ai cập đã nghiên cứu các hiệu quả hoặc tác dụng của chất myrrh trên 7 bệnh nhân nhiễm bệnh này, họ sử dụng thuốc Mirazid điều trị coh tất cả các ca với liều 12mg/kg mỗi ngày trong vòng 6 ngày liên tiếp.
Các bệnh nhân biểu hiện cho thấy giảm lượng trứng trong phân đáng kể vào thời điểm cuối tuần thứ 3 và chữa khỏi hoàn toàn sau 3 tháng điều trị. Các nhà nghiên cứu rất lạc quan về kết quả nghiên cứu mặc dù chỉ là phạm vi quy mô nhỏ, song cũng đã chứng minh được chất myrrh rất hiệuquả trong điều trị các bệnh lý này (Massoud và cs).
Một nghiên cứu khác được tiến hành đánh giá hiệu lực của myrrh lên các ấu trùng của sán máng S. littoralis. Những kết quả cho thấy mặc dù chất myrrh không hiệu quả như những chất diệt côn trùng khác có trên thị trường hiện nay, song nó cũng có hiệu lực diệt nhiều ấu trùng khi chúng được bổ sung vào các hóa chất diệt, nó làm tăng hiệu quả cộng hợp (Shonouda, Farrag và Salama 347-356).
Tổng hợp y văn và các lời bình luận khi điều trị sán máng bằng thảo dược Myrrh
204 bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng sán máng được điều trị bằng phối hợp thuốc resin và một loại dầu thảo dược bay hơi của cây myrrh (trích từ gốc Commiphora molmol), liều 10mg/kg cân nặng một ngày trong vòng 3 ngày. Sau 2 tháng điều trị, các bệnh nhân vẫn còn trứng đang sống trong đại tràng và niêm mạc trực tràng qua mẫu sinh thiết tại các cơ quan này, các bệnh nhân đó được điều trị liều thứ 2 cũng liều 10mg/kg/ngày trong 6 ngày, các mẫu sinh thiết ghi nhận 2 tháng sau đó: tỷ lệ chữa khỏi sau liều thuốc đầu tiên là 91.7%. Điều trị lại các bệnh nhân mà không đáp ứng với liều thứ nhất thì tỷ lệ chữa khỏi khi đó chỉ 76.5%, sau khi điều trị liều 2, tăng tỷ lệ chữa khỏi lên đến 98.1%.
Kết quả điều trị cho thấy thuốc dung nạp tốt, tác dụng phụ qua báo cáo là 11.8% nhưng cáctriệu chứng này chỉ nhẹ và thoáng qua. 20 bệnh nhân được lấy sinh thiết bệnh phẩm sau 6 tháng điều trị thì không còn thấy trứng sán nào tồn tại hoặc đang sống. Bệnh sán máng đã tác động đến 180 triệu người trên toàn thế giới, Mặc dù điều trị sớm thường mang đến kết quả tốt, nếu không điều trị đầy đủ có thể dẫn đến nhiều biến chứng, bao gồm suy thận, tổn thuowng gan, suy tim, co giật, động kinh. Praziquantel là một thuốc được lựachọn điều trị sán máng từ lâu, song gần đây nhiều nghiên cứu báo cáo kháng thuốc đã sẵn có. Nghiên cứu này đã cho thấy dẫn chất của chất nhựa thơm myrrh rất an toàn và hiệu quả trong điều trị sán máng và các nhiễm ký sinh trùng thông thường, đặc biệt các loài sán lá. (Am. J. Trop. Med. Hyg. 2004).
Kết quả điều trị khối ung thư và nấm men từ chất Myrrh
Một nghiên cứu mới đây rất thú vị về chất myrrh đã được đăng tải liền trong 2 năm qua, vì người ta đã sử dụng chất myrrh như là một bài thuốc điều trị ung thư. Tác giả đồng nghiên cứu là phó giáo sư tiến sĩ Mohamed M. Rafi, đang làm việc trong đơn vị nghiên cứu khoa học về thực phẩm tại đại học Rutgers ở New Brunswick, New Jersey. Rafi và cộng sự tin rằng chất myrrh đã tác động nhờ vào việc làm bất hoạt một loại proteine có tên gọi là Bcl-2-loại protein này đã sinh ra quá mức từ các tế bào ung thư, đặc biệt trong các loại ung thư vú và ung thư tuyến tiền liệt. Cơ chế tác động này của chất myrrh có thể do số lượng thành phần sesquiterpenes chứa trong chất myrrh cao- Rafi cho biết và nhấn mạnh điểm đặc biệt của chất myrrh là sẽ tác động vào những vị trí mà các hợp chất khác đã thất bại. Đó là một khám phá thú vị, các nhà nghiên cứu cho rằng hợp chất này có thể dùng để sản xuất thuốc điều trị ung thư.
Trong nghiên cứu tại phòng thí nghiệm, các tác giả cũng cho biết hợp chất myrrh đã làm bất hoạt proteine MCF 7 - đây là loại protein có nhiều trong các tế bào ưng thư vú mà đã kháng lại với các thuốc điều gtrị cổ điển. Mặc dù chất myrrh ước tính chỉ khoảng 1/100 lần về tiềm năng so với các thuốc điều trị ụng thư khác như paclitaxel, vinblastine và vincristine, chúng dường như có thể giết chết các tế bào ung thư mà không ảnh hưởng đến các tế bào lành xung quanh, trong khi một số thuốc khác không làm được điều như vậy. Hiện chúng cũng chưa bị phát hiện kháng như các thuốckhác đã từng. Đây là những thông tin thật thú vị, quả thực như thế vì chúng hiệu quả và lại rất an toàn, thật sự đã giết chết nhiều tế bào ưng thư à đây có thể là hướng mới để thiết lập một điều trị mới cho các ung thư. Tuy nhiên, Skeptics và Rafi cảnh báo rằng nghiên cứu vẫn còn quá mới liệu có đủ đưa ra lời khuyến cao để dùng bổ sung chất myrrh này không. Nghiên cứu của Mohamed Rafi đã đương đăng tải trên số tạp chí ra Journal of Natural Products (Rutger’s News)(Bouchez). Dù trước đó vào năm 1994 đã có một nghiên cứu về tìm năng chống ung thư của Commiphora molmol.
Một nghiên cứu tiến hành trên chuột với các khối u dạng đặc Ehrlich và được đánh giá đếm toàn bộ và khả năng sống của khối u trước và sau điều trị 25 và 50 ngày. Liều dùng 250 và 500 mg/kg /ngàyđược chỉ định. Tiềm năng chống khối u của chất myrrh được so sánh với thuốc chuẩn loại gây độc tế bào là thuốc cyclophosphamide (al-Harbi và cs., Anticarcinogenic).
Ngoài ra, dầu chiết từ chất myrrh có thể điều trị nấm chân, hen suyễn, nấm candida, ho, chàm, nhiễm nấm khác, viêm lưỡi, viêm họng, trĩ, loét miệng, giun tóc, các bệnh về da các vết thương và các vết nứt nẻ. Chúng cũng được dùng để điều trị viêm phế quản, lỵ, tiêu chảy, suy tuyến giáp, loét niêm mạc, viêm tấy âm đạo và viêm gan virus (trích từ Essential Oils Desk Reference). Một nghiên cứu được tiến hành bởi Trung tâm nghiên cứu nha khoa, đại học nha khoa Tennessee, đã xác định chất dầu myrrh có hoạt tính gây độc cho các nguyên bào sợi xơ gây viêm nướu răng và các tế bào biểu mô ở người (Tipton và cộng sự., Clinical Overview).
Một số tác dụng khác của nhóm thuốc Mirazid
Lợi điểm của việc sử dụng chất myrrh trong các chế phẩm thảo dược. Về mặt cổ truyền, chấtmyrrh đã được sử dụng đường uống để điều trị các bệnh lý về viêm khớp, đau bụng, đau bụng kinh, nhiễm trùng hô hấp cấp, phong, giang mai, ung thư, viêm họng, ho, …Điều trị bên ngoài thì chất myrrh đã từng dùng để điều trị đau cơ, viêm khớp, loét, vết thương, răng đau, nhiễm khuẩn và nhiễm nấm ở da và bệnh mụn trứng cá đỏ (Innvista_E Drug Digest). Myrrh thường được trộn với bột “golden seal” rồi rắc lên trên chỗ dây rốn của các trẻ sơ sinh. Điều này hiện vẫn còn dùng cho đến hôm nay. Nó còn được pha trong cồn để điều trị các vết abces (Christopher và Gileadi);
Nền y học cổ truyền Trung Hoa đã sử dụng chất myrrh điều trị nhiều bệnh lý khác nhau như đau, sưng, cứng, vết thâm tím, tình trạng ứ trệ và chống huyết khối;
·Nền y học Ayurvedic, myrrh được dùng để làm sạch máu và cải thiện trí tuệ. Ngày nay, sử dụng myrrh cũng tương tự mặc dù các nhà khoa học đã khám phá ra một vài lý do tại sao chất này tác dụng như thế. Myrrh được xem là chất kích thích tạo ra các tế bào bạch cầu, để hướng đến các vùng nào đang nhiễm trùng. Một khía cạnh đặc biệt nữa là thuốc này còn đóng vai trò trong điều trị các viêm loét miệng, viêm nứớu, đục thủy tinh thể, viêm xoang, viêm miệng, khí hư. Myrrh cũng có thể giải quyết các triệu chứng tại đường hô hấp. Chúng còn có giá trị trong điều trị các bệnh có sốt và bệnh brucellose (một bệnh nhiễm trùng có sốt ảnh hưởng lớn đến gia súc như heo, dê và đôi khi có cả người). Người ta thường sử dụng điều trị các bệnh cảm thông thường, chữa các vết thương, vết nhiễm trùng và trầy xước (Hoffmann);
·Các nhà khoa học Đức cũng đã cấp nhận và cấp phép một số chế phẩm bột myrrh trong điều trị các viêm nhiễm nhẹ ở họng và miệng do trong chất myrrh có thành phần tannin;
·Trong mộtthông điệp gởi đến tạp chí Nature, các nhà nghiên cứu từ đại học Florence đã cho một báo cáo về nghiên cứu của họ về chất myrrh như một chất giảm đau. Họ đã thử nghiệm chúng trên chuột và dùng một miếng kim loại phẳng để xem dung nạp mức độ đau tăng dần của chuột. Thử nghiệm của họ cho thấy chất myrrh có tác dụng giảm đau trên chuột. Các nhà nghiên cứu cũng phân lập được 3 loại sesquiterpenes từ myrrh và thử chúng trên những con chuột. Các sesquiterpenes này là furanoeudesma-1,3-diene, curzarene và furanodiene. Họ phát hiện thấy furanodiene không hiệu quả, nhưng furanoeudesma-1,3-diene và curzarene giúp tăng chịu đựng đau của chuột. Ngoài ra, thử nghiệm còn cho biết furanoeudesma-1,3-diene có tác động lên các thụ thểopioid trong màng não, gây ảnh hưởng đến nhận thức cảm giác đau (Herbalgram);
·Một nhóm nghiên cứu khác cũng coh kết quả tương tự. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu cho liều500 mg/kg chất cao petroleum của gôm từ cây Commiphora molmol, giúp phản ứng viêm giảm đi đáng kể. nên các cao trích này đã coh thấy hoạt tính chống viêm và hạ sốt tốt (Tariq M. và cộng sự);
·Nghiên cứu cho thấy một nhóm hợp chấtnhư là các sesquiterpene lactones, có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm mạnh chống lại Staphylococcus và nấm Candida albicans và vi khuẩn gây bệnh E. coli. Trong một chuyên đề trong Planta Medica, myrrh cũng được nghiên cứu để làm chất gây tê, gây mê, chất kháng khuẩn và kháng nấm. Các nhà nghiên cứu cũng đã báo cáo là sau khi ly trích và làm tinh khiết thì có đến 8 sesquiterpenes từ cây Commiphora molmol, họ đã tìm thấy chất furanodiene-6-one và methoxyfuranoguaia-9ene-8-one có khả năng kháng khuẩn và kháng nấm, đặc biệt trên các dòng vi khuẩn Escherichia coli, Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa và Candida albicans (Dolara và cộng sự);
·Đơn vị nghiên cứu dược tại Saudi Arabia báo cáo rằng trước khi điều trị gôm myrrh có tác dụng bảo vệ chống lại các vết loét tại niêm mạc dạ dày, các tổn thương mô bệnh học, giảm hàm lượng protein và nồng độ nucleic acid và còn bảo vệ chống lại hiện tượng khuyết, hoại tử sung huyết và xuất huyết. Các nhà nghiên cứu đã góp phần tăng tác dụng điều trị vì liên quan đến các gốc tự do, kích thíhc tuyến giáp và tăng tiết prostaglandin (Harbi và cộng sự). Ngoài 6 loại cây trồng ở châu Phi được cho là có tác dụng ngăn ngừa huyết khối trên chuột thì nay có thêm myrrh cũng cho hoạt tính chống huyết khối mạnh nhất. Các loại cây trồng khác đang được sàng lọc và nghiên cứu tiếp tục là Azadiractha indica, Bridelia ferruginea, Garcinia kola, Curcuma longa.