Giun móc (Ancylostoma duoenale) và giun mỏ (Necator americanus) với tên chung là giun móc y học dùng để chỉ những giun ký sinh ở người thuộc lớp phụ Strongyloidae: Ancylostom duoenale (Dubini,1834) và Necator americanus (W.Stiles, 1902) sống dưới dạng trưởng thành trong ruột non của người. Đặc điểm của 2 loại giun này là có bao miệng phát triển, miệng có những vòng móc để ngoạm vào niêm mạc ruột vật chủ để hút máu. Nghiên cứu của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương và Quy Nhơn tại một số điểm miền Bắc và miền Trung Việt Nam cho thấy tỷ lệ giun móc chỉ chiếm 5-10%, trong khi đó giun mỏ chiếm tới 90-95%. Tuy hình thể ấu trùng và giun trưởng thành có khác nhau ở một vài điểm, nhưng đều giống nhau về đặc điểm bệnh học, dịch tễ học, hình thể trứng, do vậy từ trước đến nay người ta thường quen dùng danh từ giun móc nhiều hơn. Bệnh giun móc/mỏ cũng là một trong những bệnh giun truyền qua đất, nghĩa là có giai đoạn trứng phát triển ở ngoại cảnh thành ấu trùng. Tuy nhiên đường lây nhiễm chủ yếu là ấu trùng xâm nhập vào vật chủ qua da, khác với bệnh giun đũa, giun tóc lây nhiễm qua đường ăn uống. Như vậy bệnh giun móc/mỏ liên quan rất nhiều đến vấn đề vệ sinh môi trường, quản lý và xử lý phân người.
|
Chu kỳ của giun móc/mỏ |
Những năm trước đây tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ ở các tỉnh miền Bắc khá cao thường từ 80-90%, nhất là những vùng có sử dụng phân tươi để bón cây trồng. Khu vực miền Trung-Tây Nguyên, tập quán sử dụng phân tươi rất ít, nhưng thói quen phóng uế ra các bãi cát, bãi biển, cánh rừng… lại phổ biến. Thời tiết của khu vực miền Trung-Tây Nguyên có mưa và nắng kéo dài ít nhiều đã làm hỏng trứng giun móc/mỏ không phát triển thành ấu trùng nên khả năng lây nhiễm hạn chế hơn.
 |
Hình ảnh ấu trùng giun móc/mỏ chui qua da |
Điều tra của khoa Ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đầu năm 2008 tại một số điểm thuộc 4 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai và Đăk Lăk qua 1623 người xét nghiệm, phát hiện 339 ca nhiễm giun móc/mo, chiếm tỷ lệ chung là 20,88%; trong đó cao nhất tại điểm Eakênh (ĐakLak) 27,31%, có lẽ do ấu trùng giun móc/mỏ sẽ phát triển thuận lợi ở vùng cà phê đất xốp, ẩm thấp cộng với người dân đi chân đất chăm bón cây cà phê, cao su sẽ tạo thuận lợi cho ấu trùng tiếp cận qua da. Về cường độ nhiễm giun móc/mỏ chung qua số trứng trung bình/1 gam phân là 186,33, trong đó cường độ nhiễm cao cũng ở Eakênh (Đăk Lăk) 243,22 và Yang Bắc (Gia Lai) 214,23. Kết quả này so với tiêu chuẩn phân loại cường độ nhiễm các bệnh giun truyền qua đất của Tổ chức Y tế thế giới thì cường độ nhiễm giun móc/mỏ ở các điểm nghiên cứu này ở mức độ nhẹ.
Như vậy chiến lược phòng chống các bệnh giun truyền qua đất của Tổ chức Y tế thế giới ở những vùng nhiễm nhẹ và trung bình chỉ cần tuyên truyền giáo dục phòng chống bệnh kết hợp điều trị ca bệnh. Riêng những vùng nhiễm nặng vừa kết hợp tuyên truyền giáo dục vừa phải điều trị toàn dân mới đạt hiệu quả.