Ký sinh trùng lạc chủ là những ký sinh trùng bình thường sống ký sinh ở một loài vật chủ nhất định nhưng do tiếp xúc giữa vật chủ này với vật chủ khác, ký sinh trùng có thể nhiễm qua vật chủ mới. Giun là một loại ký sinh trùng, một số ấu trùng của các loài giun ký sinh ở động vật tình cờ có thể chui qua da hay theo thức ăn ... lạc chủ vào cơ thể người. Người không phải là vật chủ chính của các loại giun này nhưng khi ấu trùng xâm nhập vào cơ thể con người, nó có thể gây bệnh.
Hội chứng ấu trùng di chuyển (Larva migrans)
Ấu trùng giun khi xâm nhập vào cơ thể con người, chúng không phát triển thành giun trưởng thành mà chỉ tồn tại ở dạng ấu trùng, gây nên hội chứng ấu trùng di chuyển (Larva migrans) với các biểu hiện bệnh lý lâm sàng đa dạng và khác nhau.
Một bệnh ký sinh trùng điển hình Gnathostoma thường gặp ở người do bị nhiễm loại ấu trùng giun Gnathostoma spinigerum được chú ý. Bệnh phân bố khá phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Philippine, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam ... Giun Gnathostoma spinigerum trưởng thành sống ký sinh ở thực quản, dạ dày, ruột của các vật chủ chính là chó, mèo, gà, hổ, báo, cầy, cò, gà, vịt ... tạo thành các u, bướu ở đó. Giun trưởng thành đẻ trứng và theo phân ra ngoại cảnh. Trứng phát triển thành ấu trùng ký sinh qua các vật chủ phụ, trong đó có các loài cá, rắn, ếch, nhái ... Nếu các động vật như chó, mèo, hổ, báo, cầy, gà, vịt ... ăn phải thịt cá, rắn, ếch nhái ... thì ấu trùng tiếp tục phát triển thành giun trưởng ký sinh ở động vật, tạo thành các u nang ở thành dạ dày và ruột. Người tình cờ ăn phải thức ăn được chế biến từ các loại ếch, nhái, cá ... bị nhiễm ấu trùng giun chưa được nấu chín sẽ bị nhiễm bệnh. Trong cơ thể người, ấu trùng giun không phát triển đến giai đoạn trưởng thành mà chỉ tồn tại ở giai đoạn ấu trùng. Ấu trùng thường di chuyển khắp các cơ quan, gây ra hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da và hội chứng ấu trùng di chuyển nội tạng, biểu hiện bệnh lý lâm sàng thường có cả hai hội chứng này. Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là nổi mề đay mạn tính, nổi u cục thường có kích thước to nhỏ không đều, có tính di chuyển, đôi khi kèm cảm giác đau. Tiếp theo là sưng đau cơ, thường gặp sưng đau cơ chân, tay, mặt, ngực. Trường hợp sưng đau cơ ngực, bệnh nhân có cảm giác khó thở, cảm giác đó biến mất sau khi đáp ứng điều trị đặc hiệu. Triệu chứng sưng đau cơ có thể khu trú hay phối hợp nhiều vị trí cùng một lúc. Da và tổ chức dưới da có thể bị tổn thương do ấu trùng giun dưới da gây bội nhiễm, tạo thành các ổ áp xe có đặc điểm giống như các bọc mủ, u nhọt hoặc tạo ra những đường hầm dưới da, hông, vùng ngực, vú, thái dương, thậm chí có thể gây tử vong nếu ấu trùng giun chui vào cơ quan trọng yếu như não. Hiện tượng ấu trùng di chuyển có thể kéo dài nhiều tháng, nhiều năm và kết thúc khi ấu trùng giun chui ra từ các ổ áp xe dưới da. Nếu người bị nhiễm qua đường tiêu hóa, ấu trùng thường đến gan, có thể lạc đến xoang bụng tạo thành u hoặc đến hệ thần kinh trung ương gây viêm màng não cấp tính; sưng cơ vùng mang tai giống bệnh quai bị hoặc chui vào mắt gây viêm mống mắt, viêm tiền phòng, cần phải được can thiệp bằng phẩu thuật.
Cảnh giác bệnh giun Gnathostoma gây hội chứng ấu trùng di chuyển
Bệnh giun Gnathostoma ở người do loại ấu trùng giun Gnathostona spinigerum thường gặp gây nên. Trước đây, bệnh nhiễm Gnathostoma được xem là hiếm gặp tại Việt Nam, thậm chí cho đến năm 1998 vẫn được xem là bệnh hiếm gặp mặc dù đã có 4 loài Gnathostoma được phát hiện trên động vật và thông báo từ đầu thế kỷ thứ 20. Điều này có thể do bệnh rất đa dạng và chưa có phương tiện để chẩn đoán. Trước năm 2000 đã có nhiều trường hợp bệnh do nhiễm ấu trùng Gnathostoma gây ra ở mắt được Viện Mắt Trung ương và Bệnh viện 103 thông báo. Từ tháng 6/2002 đến tháng 8/2003, Bộ môn Ký sinh trùng-Vi nấm thuộc Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện 30 trường hợp bệnh do nhiễm ấu trùng giun Gnathostoma ở người lớn nhờ kỹ thuật miễn dịch Elisa để chẩn đoán. Các hình ảnh lâm sàng của bệnh do nhiễm ấu trùng giun Gnathostoma ở người lớn được ghi nhận, lưu ý, cảnh báo các bác sĩ lâm sàng cần quan tâm, cảnh giác, không bỏ sót để bệnh được phát hiện, chẩn đoán và điều trị sớm.
Để phát hiện bệnh, cần khai thác tiền sử bệnh nhân như thường ăn các món ăn có nguy cơ mắc bệnh như thức ăn được chế biến từ cá có mang mầm bệnh còn sống, chưa được nấu chín; đặc biệt là những người sinh sống và làm việc ở những vùng có ổ bệnh lưu hành. Chẩn đoán lâm sàng thường dựa vào biểu hiện đặc trưng của bệnh như Hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da và Hội chứng ấu trùng di chuyển nội tạng. Cần thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết như tìm ấu trùng giun ở vết loét, thử máu thấy bạch cầu ái toan tăng cao, chẩn đoán huyết thanh Elisa có kết quả Gnathostoma dương tính. Những trường hợp nghi ngờ, có thể điều trị thử bằng thuốc đặc hiệu đối với Gnathostoma thấy đáp ứng tốt để chẩn đoán hồi cứu. Khi đã chẩn đoán xác định bệnh, sử dụng các loại thuốc đặc hiệu để điều trị như Albendazole, Thiabendazole hoặc Ivermectin ... Cũng cần phẩu thuật để chích các ổ áp xe, lấy bỏ ấu trùng giun ra khỏi cơ thể.
Đề phòng nhiễm bệnh ấu trùng giun Gnathostoma
Để phòng tránh mắc bệnh ấu trùng giun Gnathostoma, cần tổ chức công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, cảnh báo cho cộng đồng người dân cần thận trọng khi sử dụng các loại thức ăn có nguy cơ bị nhiễm bệnh. Không nên ăn các loại thức ăn thủy hải sản như cá, ếch, nhái, tôm ... ở tình trạng tái, còn sống, chưa được nấu chín kỹ; sử dụng các nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh, không uống nước lã. Ngoài ra cần có biện pháp đề phòng ấu trùng giun có thể chui qua da bằng cách mang găng tay khi giết, mổ, chế biến thực phẩm từ các loại cá, ếch, nhái ...
 | |
Sử dụng các nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh, các loại cá, ếch, nhái ... để phòng tránh (ảnh minh hoạ) | mang găng tay khi giết, mổ, chế biến thực phẩm từ mắc bệnh ấu trùng giun Gnathostoma. (ảnh st) |
Mặc dù hiện tượng giun lạc chủ và hội chứng ấu trùng di chuyển ở người là những trường hợp bệnh lý ít gặp nhưng trên thực tế đã được phát hiện ở một số nơi nhờ vào các phương tiện chẩn đoán hiện đại, đầy đủ. Vì vậy các cơ sở y tế cần quan tâm, chú ý đến một bệnh ký sinh trùng cần được cảnh giác và đề phòng.