Để thu thập và đánh giá những thông tin vềbệnh sán lá gan lớn ở một số tỉnh miền Trung-Việt Nam, Đoàn chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới và hai Viện Sốt rét KST-CT Trung ương, Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tiến hành khảo sát tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn ở một số tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam.
Thành phần Đoàn gồm có:
1)BS Albis Francesco-Chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới tại Geneva
2)BS Antonio Montresor-Chuyên gia của Tổ chức y tế thế giới tại Việt Nam
3)BS Trần Công Đại-chuyên gia của Tổ chức y tế thế giới tại Việt Nam
4)TS Đặng Thị Cẩm Thạch-Trưởng khoa Ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương
5)TS Nguyễn Văn Chương-Trưởng khoa Ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn
Từ ngày 22/8 - 26/8 /2006, Đoàn đã làm việc với Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và các tỉnh Khánh Hòa, Phú yên, Quảng Ngãi, Quảng Nam có tình hình nhiễm bệnh sán lá gan cao ở khu vực miền Trung. Tại các tỉnh đoàn đã làm việc trực tiếp với các đơn vị chịu trách nhiệm về công tác chỉ đạo, phòng chống và điều trị bệnh sán lá gan lớn: |
Đoàn công tác làm việc với Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn |
-Trung tâm phòng chống Sốt rét và Bướu cổ tỉnh Khánh Hòa
-Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa
-Bệnh viện huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa
-Sở Y tế và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định
-Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi
-Trung tâm phòng chống Sốt rét và Bướu cổ tỉnh Quảng Nam.
-Bệnh viện khu vực Bắc Quảng Nam.
Qua khảo sát và trao đổi với các nơi đến làm việc, Đoàn đã ghi nhận nhiều vấn đề xung quanh việc chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn, đặc biệt là nguồn thuốc đặc hiệu Triclabendazole cho các cơ sở điều trị.
Về thực trạng bệnh sán lá gan lớn tại tỉnh Khánh Hòa, theo báo cáo của Trung tâm Phòng chống sốt rét-Bướu cổ năm 2005 điều tra xét nghiệm ELISA 1432 mẫu tại 6 huyện có 144 người có huyết thanh dương tính với sán lá gan lớn, tỷ lệ 10,06%, cao nhất là xã Vạn Bình 61/144 ca (42,4%). Kết quả điều trị 62 bệnh nhân sán lá gan lớn ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa trong 6 tháng đầu năm 2006 bằng thuốc Artesunate 2v/24h ´ 10 ngày kết hợp với Zentel 2v/24h x 10 ngày cho tỷ lệ khỏi bệnh rất thấp, đa số bệnh nhân chỉ đỡ một phần triệu chứng lâm sàng, sau lại phải tái nhập viện nhiều lần. Bệnh viện huyện Vạn Ninh trong 6 tháng đầu năm 2006 cũng thu dung 16 ca điều trị bằng phác đồ Artesunate và Mebendazole cũng rất kém hiệu quả.
 |  |
Đoàn thăm Bệnh viện tỉnh Quảng Ngãi
| Đoàn công tác làm việcvới Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa |
Đoàn chuyên gia đã đánh giá cao về kết quả nghiên cứu và điều trị thuốc đặc hiệu Triclabendazole của Phòng Khám Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn với gần 2000 ca nhiễm sán lá gan lớn được phát hiện trong 6 tháng đầu năm 2006. Ngoài ra Viện còn có nhiều đề tài nghiên cứu về dịch tễ học và điều trị bệnh, đóng góp tích cực cho việc xây dựng hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn của Bộ Y tế.
Trong buổi làm việc với Viện, TS Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng phản ánh cụ thể tình hình bệnh sán lá gan lớn tại khu vực và những giải pháp đã thực hiện nhiều năm qua nhằm phát hiện điều trị giảm áp lực bệnh nhân từ các tỉnh chuyển về; đồng thời đề nghị với Tổ chức Y tế thế giới sớm có Dự án về phòng chống sán lá gan lớn cho khu vực miền Trung.
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định trong 6 tháng đầu năm 2006 đã điều trị 733 ca nhiễm sán lá gan lớn chủ yếu từ các huyện trong tỉnh và một số ít từ các tỉnh Gia Lai, Quảng Ngãi. Nguồn thuốc Triclabendazole do Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương và Quy Nhơn cung cấp nên việcđiều trị cũng có nhiều thuận lợi.
|  |
| Làm việc với Bệnh viện tỉnh Bình Định | Làm việc với Bệnh viện Bắc Quảng Nam |
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, 8 tháng đầu năm 2006 điều trị 228 ca nhiễm sán lá gan lớn, đa số là bệnh nhân nữ. Việc sàng lọc bệnh nhân đưa vào diện điều trị dựa vào siêu âm chẩn đoán, nếu nghi ngờ mắc bệnh sán lá gan lớn mới thực hiện các xét nghiệm tiếp theo; hầu hết số bệnh nhân được chẩn đoán xác định cũng được điều trị bằng Triclabendazole do Tổ chức Y tế thế giới cung cấp.
Báo cáo của Trung tâm PCSR và Bướu cổ tỉnh Quảng Nam trong hai năm 2003-2004, chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng và siêu âm, chưa thực hiện được kỹ thuật ELISA. Từ tháng 5/2006, kỹ thuật Elisa mới được triển khai, hiện nay bệnh sán lá gan lớn đã phát hiện ở 11/17 huyện thị; số bệnh nhân tập trung nhiều nhất là huyện Đại Lộc (176/254 ca). Tại bệnh viện khu vực Bắc Quảng Nam, số bệnh nhân đến điều trị tại bệnh viện trong 6 tháng đầu năm là 143 ca. Tất cả các bệnh nhân đều được điều trị bằng thuốc đặc hiệu Triclabendazole do Tổ chức Y tế thế giới cung cấp.
Trong quá trình làm việc và trao đổi với Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và các đơn vị đến khảo sát; chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới đã ghi nhận tình hình sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung diễn biến phức tạp, nguy cơ tiếp tục gia tăng tại cộng đồng là rất lớn. Kết quả khảo sát giúp Đoàn chuyên gia có nhiều cơ sở để xây dựng chương trình phòng chống sán lá gan lớn tại Việt Nam và khu vực miền Trung. Hy vọng trong tương lai không xa nước ta sẽ có nhiều những thuận lợi trong việc đầu tư phòng chống sán lá gan lớn với sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới.