Nguyên tắc điều trị
Điều trị bệnh sán lá gan lớn (SLGL) càng sớm càng có hiệu quả, kết quả điều trị không nên đánh giá chỉ thông qua một thông số sạch trứng SLGL trong phân mà nên đánh giá một cách tổng quát cả lâm sàng và cận lâm sàng. Vì phần lớn các thuốc điều trị SLGL đều có độc tính cao, do vậy nên điều trị tại cơ sở bệnh viện để theo dõi chặt chẽ.
Qua quá trình nghiên cứu, trên thế giới và trong nước, hiện có nhiều thuốc điều trị bệnh này, song hiệu quả điều trị giữa các thuốc khác nhau rất lớn (H.H.Quang và cs., 2004; 2005, 2006; Esteban và cs., 1998).
Dựa vào phân loại về thuốc điều trị giun sán, con đường tác động sinh hóa học của thuốc sẽ khác nhau trên từng loại vật chủ, độc tính tác động trực tiếp lên trứng, ấu trùng hoặc sán trưởng thành cũng vậy. Cơ chế tác động của thuốc khác nhau nhưng nhìn chung các chuyên gia đi sâu vào khâu tác động ở những mắc xích cơ bản sau đây để cuối cùng mang lại hiệu quả là thân sán bị sưng phồng và mụn nát rồi hoại tử:
-Ức chế các vi ống microtubule, gây ra block đảo ngược con đường tiêu thụ glucose của sán lá gan lớn fasciolae.
-Ức chế trùng hợp tubulin (tubulin polymerization) làm quá trình hình thành bị gián đoạn .
-Ngăn chặn sự khử cực thần kinh cơ của sán lá gan lớn (neuromuscular blockade).
-Ức chế men cholinesterase.
-Gây tăng tính thấm màng tế bào, dẫn đến mất ion canxi nội bào.
-Gây ra sự chân không hóa của tegument.
-Gây tăng tính thấm màng tế bào với ion chlor thông qua thay đổi kênh ion.
Một số thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh sán lá gan lớn
1.2-Déhydroémetin (sản phẩm hãng Roche và nội địa):
Là một thuốc cổ điển để điều trị rộng rãi, loại emetin tổng hợp được bài tiết 2 lần nhanh hơn emetin thiên nhiên, do đó ít độc hơn. Thông thường thuốc được dùng tiêm dưới da hoặc tiêm bắp với liều 1-10mg/kg x 10 ngày hay 0,1g/ngày trong 10 ngày với người cân nặng trung bình 50kg. Người có tổng trọng trung bình cao, có thể dùng liều cao hơn nhưng tối đa chỉ 1,4g cho một lượt điều trị. Thường dùng kết hợp với Strychnine (1mg/ngày) và vitamine B1 (250mg).
Hiệu lực của thuốc rất cao khi điều trị giai đoạn cấp, và giai đoạn bán cấp mà tác dụng phụ tương đối. Độc tính của thuốc đã ghi nhận qua nhiều nghiên cứu cũng như trên lâm sàng bệnh viện như viêm cơ tim cấp (L.Q.Hung và cs., 1997), rối loạn nhịp, đối khi gây tăng huyết áp nhẹ (H.H.Quang., 2004, 2005).
So với Emetine thì Dehydroemetine có thời gian bán hủy ngắn hơn và thải trừ khỏi gan, tim nhanh hơn, tuy nhiên khi điều trị Emetin chưa thấy có ca nào báo cáo tử vong.
Trừ trường hợp viêm do sán lá gan lớn cấp tính, nên dùng 2-3 đợt, mỗi đợt cách nhau ít nhất 3 tuần vì tính chất độc của thuốc được tích tụ, giữa các đợt dùng các thuốc sau đây:
+Entobex: 6-8 viên/ ngày trong 10-15 ngày.
+Nivaquine: 600mg/ngày trong 2 ngày, rồi 300mg/ ngày trong 10 ngày.
Các thuốc trên đây cần hiểu rằng không thể một mình nó diệt ký sinh trùng, nhưng nó duy trì tác dụng Déhydroemetine và giúp chờ thải hết chất này trước khi vào đợt thuốc mới.
Vào thời kỳ xâm nhập, một đợt thuốc đủ để trị lành bệnh nhưng ở thời kỳ toàn phát, có khi phải dùng 2-3 đợt và trong trường hợp này, giữa 2 đợt điều trị, phải có khoảng cách 15 ngày vì thuốc có tính độc và tích tụ trong máu, có khả năng gây viêm cơ tim. Do vậy, ngày nay người ta rất ít dùng thuốc này điều trị bệnh sán.
2.Chloroquine:Biệt dược là Nivaquine, liều dùng cho trẻ em là 5mg/kg/ngày và liều dùng người lớn là 10mg/kg/ ngày hay 2 viên/ ngày, uống trong thời gian 3-4 tuần cũng cho hiệu quả đáng khích lệ và được khuyến cáo, song độc tính đáng kể.
3.Phénanthroline quinone: Với biệt dược Entobex, liều dùng 0.5g/ngày
4.Dithiazanine iodide: Một loại thuốc dùng để điều trị giun tròn, hiện là một thuốc điều trị đầy hứa hẹn nên nguwoif ta vẫn đang tiếp tục nghiên cứu.
5.Praziquantel: Thuốc có nhiều biệt dược như Biltricide (hãng Bayer AG), Distocide, Cestocide, Tramatodicide (Shin poong Pharmaceutical Co., Ltd), Cysticide, Cesol, Cestox (E.Merck), Pyquiton (China); tên hóa học là cyclohexylcarrbonyl-1,2,3,6,7,11b-hexahydro-2H-Pyrazino [2,1-a] isoquinolin-4-one. Công thức phân tử là C14H24N2O2, trọng lượng phân tử 31241. Tính chất bột kết tinh màu vàng nhạt, vị hơi đắng, bền với nhiệt độ thường, nhiệt độ nóng chảy 136-1400C, dễ tan trong chloroform, tan trong ethanol và methanol, khó tan trong nước. Hấp thu tốt qua đường uống, khoảng 80% hấp thu qua dạ dày và ruột non, lưu thông trong máu dưới dạng chuyển hóa, một phần nhỏ dưới dạng nguyên vẹn, nông độ cao nhất trong máu đạt được sau khi uống đạt được là sau 1-3 giờ. Nếu uống liều duy nhất 50mg/kg, sau 1-2 giờ nồng độ thuốc trong máu là 1microg/ml, nồng độ thuốc trong dịch não tủy bằng 14-20% so với nồng độ thuốc trong huyết thanh, nồng độ thuốc trong sữa mẹ bằng 25% so với nồng độ thuốc trong huyết thanh. Thuốc đào thải sau khi uống 1-1,5 giờ, thuốc bắt đầu đào thải và có 70-80% qua đường tiểu, trong đó dưới 1% đào thải dưới dạng không biến đổi. Thời gian bán hủy thuốc là 4-5 giờ đối với người có chức năng gan thận bình thường. Tác dụng phụ của thuốc thường nhẹ, dễ mất đi và bệnh nhân có thể chịu đựng được (chóng mặt, nhức đầu, ngủ gà, buồn nôn, khó chịu vùng hạ vị, mẩn ngứa và có thể sốt).
|
Xét nghiệm soi phân tìm trứng SLGL |
Điểm qua cơ chế tác dụng của praziquantel: thuốc ngấm vào sán nhanh, làm tăng tính thấm của tế bào ký sinh trùng đối với ion Ca2+ dẫn đến tăng nồng độ ion Ca2+ trong tế bào sán, làm vỡ tế bào, gây co cơ nhanh và tăng thấm cả vào tegument và hậu quả rằng ký sinh trùng chết. Sự tác động lên tế bào của praziquantel có khác nhau giữa các loài sán. Ngoài ra, praziquantel còn làm giảm nồng độ glycogen nội sinh và làm giảm giải phóng lactate của ký sinh trùng.
Vài nghiên cứu cho biết dù thuốc này cho kết quả tốt với các loại sán lá khác, (sán lá phổi, sán lá gan nhỏ) với liều công hiệu cho sán lá gan nhỏ 25mg/kg/lần x 3 lần/ngày x 1 ngày(liều duy nhất) khỏi 85,7-86,4% nhưng công hiệu lại kém với sán lá gan lớn (chỉ 30% với liều 75mg/kg/ ngày trong 5 ngày) thậm chí một số nghiên cứu cho biết không có hiệu quả. Giải thích về hiệu quả thấp có thể thuốc praziquantel không thể xâm nhập qua vỏ (tegument) dày của SLGL nên chỉ ứ đọng thuốc tại chỗ mà thôi. Một số tác giả khác thì có nhìn nhận tác dụng của Praziquantel (Knoblock et al., 1985; Schiappacasse et al, 1985).Mặc dù độ an toàn và hiệu lực nói chung trên các loài trematode là tốt, praziquantel dường như rất ít hiệu quả trên F.hepatica và F.gigantica.
6.Albendazole (biệt dược Zentel, hàm lượng 400mg):
Mặc dù rất hiệu quả trên loại bệnh sán lá gan ở động vật nhưng lại có tỷ lệ thất bại điều trị cao khi áp dụng trên bệnh SLGL ở người, nhưng hiệu quả thuốc này còn tuỳ thuộc vào tuổi của sán mà thuốc tác động lên nó. Một số tác giả nhìn nhận thuốc này cũng có hiệu quả tương đối trên SLG, song liều dùng hàng ngày thường rất cao và thời gian kéo dài ít nhất 1 tuần (Boray và cs, 1986). Các nghiên cứu sau này trong và ngoài nước xác định thuốc albendazole có tỷ lệ thất bại tương đối cao (H.H.Quang và cs., 2005; Boray và cs., 1998).
7.Mebendazole (biệt dược Winworm, hàm lượng 500mg):
Đã và đang được nhiều quốc gia nghiên cứu do tình trạng thuốc đặc hiệu triclabendazole khan hiếm, bước đầu kết quả cũng hiệu nghiệm với liều 4g/ngày x 3 tuần (4viên/ngày x 21 ngày có tác dụng với F.hepatica thể xâm nhập. Về điều trị cho bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn F.gigantica, bước đầu cho thấy thuốc có kết quả nếu ổ tổn thuowng gan còn nhỏ (H.H.Quang và cs., 2006).
8.Niclorofan:Liều dùng 2mg/kg/ngày chia 2 lần x 3 ngày hoặc liều 0,5mg/kg x 2 lần/ngày x 3 ngày cũng thấy có hiệu quả. Tác dụng phụ của thuốc như vả mồ hôi, hồi hộp, buồn nôn, đau bụng dạng colique, ngứa, vàng da và nước tiểu vàng, các biểu hiện này không cần xử trí mà sẽ hết đi khi ngừng thuốc điều trị.
9.Hexachloroparaxylol (biệt dược Cloxyl): cũng cho tác dụng điều trị sán lá gan lớn qua nhiều nghiên cứu với nhiều liều lượng khác nhau: với liều 100-150mg/kg chia 4 lần cách nhau 15 phút tại Rumani, với liều 60mg/kg/ngày x 5 ngày tại Liên Xô cũ và liều 50-80mg/kg chia 3 lần uốngtrong 7 ngày liên tục tại Trung Quốc. Tác dụng phụ của thuốc là khó chịu vùng dạ dày ruột, chóng mặt.
10.Bithionol (Lorothidol, Bitin, Dichlorophenol): thuốc này thông dụng dùng điều trị đặc hiệu sán lá phổi và là thuốc lựa chọn thay thế trong trường hợp sán lá gan lớn không nhạy với triclabendazol.
Về cơ chế tác dụng là gây ra sự oxy hóa và phosphoryl hóa bên trong ký sinh trùng, dẫn đến block sự tổng hợp adenosin triphosphate (ATP), nay thuốc chỉ được dùng điều trị cho nhiễm trùng mạn tính, tỷ lệ chữa khỏi (cure rate) gần 50% và quá trình điều trị phải lặp lại vài ngày sau đó với liều tăng dần theo từng ngày, điều đáng quan tâm rằng thuốc này có tác dụng phụ nghiêm trọng. Liều thường dùng là 30-50mg/kg, uống cách nhật 20-30 ngày chia làm 3 đợt, những trường hợp không đáp ứng với emetine thì dùng bithionol 50mg/kg/ngày uống cách nhật x 10 ngày hoặc 40mg/kg/ngày cách ngày x 14-15 ngày. Nhìn chung, thuốc bithionol mặc dù không có tác dụng điều trị một cách đầy đủ, song nó được khuyến cáo sử dụng trong một thời gian dài để điều trị bệnh sán lá gan lớn.
Thuốc có tác dụng phụ như tiêu chảy, chán ăn, buồn nôn, khó chịu bụng, mẩn ngứa, mày đay,.. song các dấu hiệu này sẽ mất đi khi dừng thuốc khoảng 3 ngày. thuốc có an toàn khi sử dụng trên đối tượng phụ nữ có thai hay không thì chưa thấy báo cáo nào.
11.Clorsulon cũng là một thuốc hiệu quả cao chống lại sán lá gan lớn trưởng thành và chưa trưởng thành ở liều 20-30mg/kg liều duy nhất. Qua nhiều nghiên cứu đa trung tâm thú y trên thế giới, kết quả cho thấy hiệu quả cao chống lại sán trưởng thành và chưa trưởng thành ở cừu và gia súc rất tốt. Liều tối đa an toàn là 200mg/kg được dung nạp bởi cừu. Hiện tài liệu về các công trình nghiên cứu thuốc trên người này chưa có công bố rộng rãi vì đang trong giai đoạn nghiên cứu trước khi đưa ra thị trường.
12.Entobex (quinone): dùng đường uống 50mg/kg, ngày dùng 5-6 lần, trong 10 ngày cũng cho hiệu quả tốt.
13.Nitazoxanide: Nitazoxanide là một dẫn xuất của thiazolide được mô tả lần đầu tiên 1975 và có nguồn gốc là một thuốc điều trị giun sán cho thú y (Rossignol, Cavier, 1975). Trên người, thuốc này có phổ rộng chống lại các loại ký sinh trùng, bao gồm Crypsporidium parvum và Isospora belli ở những bệnh nhân sau giảm miễn dịch mắc phải, Entamoeba histolytica, Giardia duodenalis, giun đũa, giun tóc, Taenia saginata (sán dây bò) và Hymenolepis nana (Rossignol và Maisonneuve, 1984; Cabello et al, 1997; Doumbo et al, 1997). Thuốc này cũng có hiệu quả trên in vitro chống lại fasciolae hepatica và trên in vivo chống các giai đoạn non và trưởng thành của F.hepatica ở thỏ gây nhiễm thực nghiệm. Nitazoxanide cũng có phổ rộng chống vi khuẩn gram âm và dương và một số vi khuẩn hiếu khí như tụ cầu vàng và những chủng Helicobacter pylori (tác nhân gây loét tiêu hoá) kháng metronidazole (Dubreuil et al, 1996).
Một nghiên cứu được tiến hành do các nhà khoa học thuộc khoa kí sinh trùng và khoa nhi, Đại học Ain Shams, Iran nhằm đánh giá hiệu quả thuốc nitazoxanide (biệt dược Fental â) lêncác giai đoạn phát triển khác nhau của sán lá gan Fasciola gigantica.
30 con thỏ được gây nhiễm thực nghiệm bằng metacercariae đường miệng. Sau đó chúng được chia thành 3 nhóm: nhóm 1, nhóm 2, nhóm 3 và được điều trị thuốc nitazoxanide ở thời điểm 3 tuần, 6 tuần và 10 tuần sau khi gây nhiễm. Mỗi nhóm như vậy gồm phụ nhóm không điều trị và phụ nhóm được điều trị.
5 con thỏ khoẻ mạnh không bị nhiễm được chọn làm nhóm chứng (nhóm 4). Tất cả thỏ được mổ sau 4 tuần điều trị nitazoxanide cho thấy hiệu quả làn lượt là 33,3%; 62,85% và 100% ở các thời điểm cho 3 tuần, 6 tuần và 10 tuần. Vì vậy, hiệu quả của thuốc liên quan chặt chẽ đến giai đoạn của sán (tuổi của sán) mà thuốc tác động lên, thời gian nhiễm càng dài thì hiệu quả càng đạt đến đỉnh điểm (100% ở tuần thứ 10).
Công thức máu được làm cho tất cả thỏ trước khi gây nhiễm, trước khi điều trị và 4 tuần sau điều trị cho thấy có sự thay đổi huyết động khi nhiễm và sau điều trị. eosinophile và thể tích hồng cầu khối là những thông số nhạy nhất để phản ảnh do tác động gây nhiễm và do điều trị. So với những con thỏ trong nhóm chứng (nhóm 4) cho thấy không có tác dụng phụ của thuốc cũng như bất thường về hình ảnh huyết động.
Thuốc đã được đăng ký ở Mỹ để trị tiêu chảy do Cryptosporidium trên bệnh nhân AIDS; đăng ký ở Tây Âu và Nam Mỹ để điều trị bệnh cryptosporidiosis và phổ rộng các loại đơn bào khác. Liều dùng 500mg đường uống 2 lần/ ngày (cách nhau 12giờ) một lần buổi sáng và một lần buổi chiều, trong 7 ngày liên tục; thuốc dung nạp tốt và hiệu quả điều trị đạt 82,4% (113/137). Sau 30 ngày hiệu giá kháng thể chuyển ngược rất thấp (1/128).
14.Métronidazol: qua những nghiên cứu gần đây thấy có hiệu quả không đáng kể với liều 750mg/ngày (3 viên/ngày) chia 3 và trong thời gian kéo dài 3 tuần và một nghiên cứu khác với liều 1,5g/ngày uống 13-28 ngày liên tục đã không điều trị khỏi thể mạn tính.
Một nghiên cứu mới đây thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu bệnh lý gan mật- tiêu hóa (Gastrointestinal and Liver Diseases Research Center (GLDRC), Đại học Guian, Rasht, Iran. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm xác định hiệu quả của metronidazol trên những bệnh nhân không điều trị khỏi sau khi dùng triclabendazole tại Guilan, một tỉnh phía Bắc của Iran. Nhóm bệnh nhân nghiên cứu này có đào thải trứng qua phân và ELISA (+), ít nhất 3 tháng sau khi điều trị bằng triclabendazole được đưa vào nghiên cứu và nhận liều điều trị 1,5g/ ngày với metronidazol đường uống trong 3 tuần. Hai tháng và 12 tháng sau khi kết thúc liệu trình điều trị, xét nghiệm phân và ELISA liên tiếp 3 ngày, khi đó tính tỷ lệ và số lượng bệnh nhân có phản ứng ELISA (-) và/ hoặc sạch trứng trong phân (test Chi-square c2 được áp dụng và p < 0,05 có ý nghĩa thống kê). Kết quả cho thấy, 26 bệnh nhân nữ và 20 nam được đưa vào lô nghiên cứu với tuổi trung bình 34,6 ± 9,8. Ba trong số bệnh nhân bị loại khỏi nghiên cứu do không phối hợp điều trị và không chịu tác dụng phụ. Hai tháng sau khi kết thúc điều trị, xét nghiệm phân cho thấy có 35 bệnh nhân âm tính và trong số đó có 31 người âm tính với cả ELISA. Tất cả các bệnh nhân đau bụng trước khi đIều trị thì nay không còn đau nữa. Hầu hết các tác dụng phụ chỉ thoáng qua, chiếm 30,4%, đau đầu 17,4% và buồn nôn 13%. Mười hai tháng sau khi điều trị, 28/35 bệnh nhân đều âm tính cả ELISA và xét nghiệm phân. Do vậy, metronidazole với liều 1,5g/24 giờ trong 3 tuần dường như có hiệu quả trên sán lá gan đề kháng với thuốc triclabedazole, thuốc dung nạp tốt. Thuốc triclabendazole là một thuốclựa chọn hàng đầu trong điều trị sán lá gan và trong một vài nghiên cứu đã tỏ ra có hiệu quả. Thuốc có tác dụng trên cả thể trưởng thành và chưa trưởng thành của fasciolae sppvà có rất nhiều báo cáo rằng thuốc có rất hiệu quả trên cả giai đoạn cấp tính và mạn tính của bệnh, nó được khuyến cáo dùng trên sán lá gan ở người do tính dung nạp tốt và chỉ định dễ dàng. Song sự kháng thuốc của triclabendazole đã được báo cáo trên những vật nuôi. Vài vụ dịch gần đây ở Guilan, các nhà khoa học đã gặp một số trường hợp không đáp ứng với thuốc và vẫn thải trứng trong phân sau 2 liệu trình điều trị bằng triclabendazole. Một số nghiên cứu về hiệu quả metronidazol lên sán lá gan đang là vấn đề cần nghiên cứu nhân rộng, khi hướng xử trí của emetin và dehydroemetin cho vấn đề kháng thuốc không còn phổ biến thông dụng tại các quốc gia có lưu hành bệnh sán lá gan lớn (http://www.MedSciMonit.com).
15.Ornitrazoxanide: mới đây cho thấy hiệu quả khi điều trị trên trẻ em của Mỹ nhiễm sán lá gan lớn có đi kèm với bệnh giardia (?) song trên các mạng internet y học, chúng tôi không thấy nói đến thuốc này phổ biến.
16.Triclabendazole (biệt dược Egaten hoặc Fasinex): là dẫn suất chlorinated benzimedazole, tên hóa học là 6-chloro-[2,3-diclorophenoxy]-2-methyl thiobenzimidazole. So với các thuốc diệt sán khác thì thuốc này có tác động trên cả thể trưởng thành và không trưởng thành, hiện được các bác sĩ thú y dùng để điều trị thể cấp tính và mạn tính bệnh sán lá ở cừu và bò và gia súc khác, và gần đây triển vọng đang dùng cho bệnh sán lá gan lớn Fasciola hepatica, Fasciola gigantica, sán lá phổi Paragonimus westermani và các loài Paragonimus khác ở người tỏ ra hiệu quả với liều 10-12mg/kg kể cả giai đoạn cấp tính và mạn tính (H.H.Quang và cs., 2005) (cần chú ý rằng thuốc này đã có thời gian không được chấp nhận dùng cho người (Apt et al, 1995; Hammouda et al., 1995; WHO., 1995).
17.Artemisinine và dẫn suất
Arrtemisinine và các dẫn suất từ lâu được xem là thuốc điều trị sốt rét (một bệnh do đơn bào plasmodium trong máu gây ra) có hiệu quả, nhất là trong các trường hợp điều trị sốt rét nặng và ác tính. Trong nhưng năm gần đây, một số nghiên cứu đa trung tâm đã thử nghiệm tác động của nhóm thuốc này trong việc điều trị bệnh sán lá gan lớnfasciolae.
Bước đầu thử nghiệm với liều người lớn: viên artesunate 50mg x 4 viên / ngày x 10-14 ngày liên tục, đường uống, cho thấy có hiệu quả, song chưa có số liệu cụ thể về hiệu lực điều trị của chúng một cách đồng nhất của nhiều trung tâm điều trị. Một nghiên cứu của Bệnh viện nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh gần đây cho biết hiệu quả thuốc artesunate trên 300 bênh nhân mắc sán lá gan lớn đạt 75-80% sau 6 tháng điều trị.
18.Nghiên cứu corticosteroides trong liệu trình điều trị bệnh sán lá gan lớn
Một vài nghiên cứu điều trị sán lá gan lớn cho biết thuốc corticosteroides (biệt dược Prednisolone, Pediapred, Delta-cortef, Econopred) có cải thiện hiệu quả điều trịcho những bệnh nhi mắc sán lá gan lớn nặng (Robert W Tolan và cs., 2006). Một liệu trình ngắn ngày (2 ngày) để thúc đẩy cải thiện hiệu lực điều trị ở trẻ bị mắc sán lá gan lớn giai đoạn cấp tính đã được báo cáo có làm tăng kết quả điều trị, làm giảm sốt, đau, ngứa và độc tính do sán lá gan lớn gây ra (Pearson RD và cs., 2002).
Liều người lớn: 2mg/kg/ngày chia làm 2 lần cách nhau 12giờ, không được tăng liều quá 60mg/ ngày. liều lượng trẻ em được cho như người lớn, song nên có sự giám sát điều trị. Chống chỉ định trong khi bệnh nhân nhiễm nấm, nhiễm trùng nặng, nhiễm virus và tổn thương da do lao.
Thuốc điều trị fasciolae được sử dụng hoặc đề nghị trên người
Thuốc | Liều khuyến cáo | Hiệu quả | Dung nạp |
Gentian Violet | Thay đổi | Không hiệu quả | Dữ liệu không đáng tin cậy |
Phenanthrochinoline | Thay đổi | Không hiệu quả | Phụ thuộc vào liều lượng |
Dithiazanine | Thay đổi | Không hiệu quả | Tác dụng phụ độc |
Chloroquine | 150mg 2lần, mỗi ngày trong 3 tuần | Không hiệu quả ở người | Độc tính! |
Metronidazole | 200mg, 3 lần mỗi ngày trong 10 ngày | Không hiệu quả ở người và cừu | X |
Metronidazole (Flagyl) | Nếu liều 1.5g/ngày trong 3 tuần | Có khẳ năng chống kháng do Fg và Fh với Triclabendazole | X |
Praziquantel | 75mg/kg chia 3 liều | Không hiệu quả ở người và cừu | X |
Emetin/ Dihydroemtine hydrochloride | 1,5mg/kg mỗi ngày hoặc 30mg cho người lớn mỗi ngày trong 10 ngày | Có hiệu quả tốt trên người | Độc tính |
Carbon tetrachloride | 2,4ml liều duy nhất | Hiệu quả trên người và cừu | Độc tính tiềm tàng |
1,4 Bis Trichloro methylbenzene (Hetol, Chloxyle) | 5x 100-200mg/kg mỗi 2 ngày. 2x 100-150mg/kg mỗi ngày | Hiệu quả chống lại sán trưởng thành và không trưởng thành ở người | độc tính, tổn thương thận |
Bithionol (Actamer) | 10-15mg hay 30-50mg/kg mỗi 2 ngày | Hiệu quả chống lại sán lá gan lớn ở người, cừu và gia súc. | Độc tính |
Bithionol Sulfoxide (Bithin-S) | 10-15mg/kgmỗi ngày ? | Hiệu quả cao với sán trưởng thành. | độc tính |
Niclofan | 2mg/kg x liều x 3 ngày | Hiệu quả cao với sán trưởng thành | độc tính mơ hồ |
Mebendazole | 50mg/kg mỗi ngày trong 7 ngày | Hiệu quả cao với sán trưởng thành | An toàn, không độc tính |
Albendazole | 10mg/kg mỗi ngày trong 7 ngày | Hiệu quả cao với sán trưởng thành | An toàn chống lại hydatid cyst ở người. |
Thiabendazole (mintazole) | Chưa thấy số liệu báo cáo về hiệu quả | Hiệu quả cao với giun đũa chó Toxocara canis và Toxocara cati | An toàn trên người |
Triclabendazole | 10-12mg/kg liều duy nhất lặp lại 48 giờ sau | Hiệu quả cao với sán trưởng thành và không trưởng thành | An toàn tuyệt đối |
Clorsulon | 20mg/kg liều duy nhất | Hiệu quả cao với sán trưởng thành và không trưởng thành | An toàn tuyệt đối |
Phổ điều trị với liều khuyến cáo chống lại Fasciolaes
| Tuổi của fasciolae tính theo tuần |
Thuốc | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 |
Mebedazole | | | | | | | | | 50-90% | 91-99% |
Bithionol | | | | | | | | |
Clorsulon | | | | 50-90% | 91-99% |
Triclabendazol | | 90-99% | 99-100% |
Diamphenetide | | 91-100% | 50-90% |
Xử trí phản ứng mày đay, dị ứng trong bệnh sán lá gan
1.Các thuốc kháng thụ thể H1 không gây ngủ:
Cơ chế tác động kháng thụ thể H1 tại phế quản, mạch máu, ruột, có tác dụng dự phòng là chủ yếu, chỉ định điều trị các bệnh dị ứng phù mạch, mày đay, côn trùng đốt, viêm mũi xoang, viêm kết mạc dị ứng, viêm da dị ứng. Nhóm này có Loratidine (biệt dược claritek, clarityn), terfenadine (tildane), mequitadine (primalan) dạng viên nén hoặc dạng siro; cetirizine (biệt dược zytec) dạng viên nén.
2.Các thuốc kháng thụ thể H1 gây ngủ:
Cơ chế tác động và chỉ định điều trị như nhóm kháng thụ thể H1 nhưng có tác dụng phụ gây buồn ngủ, nhóm này gồm Promethazine (biệt dược phenergan) dạng viên nén 25mg, dạng siro, dang ống 50mg; Alimenazine (biệt dược theralen) dạng viên nén 5mg, dạng siro; Dexchlopheniramine (biệt dược polaramin) viên 2mg, dạng siro, dạng ống 5mg, viên 6mg.
3.Xử trí viêm túi mật, đường mật đi kèm bệnh sán lá gan:
Trước hết nếu chưa có biểu hiện viêm phúc mạc tại chỗ hoặc toàn bộ, thầy thuốc thường cho thêm kháng sinh phổ rộng và theo dõi. Tùy theo mức độ đau và phản ứng của thành bụng mà thầy thuốc sẽ chỉ định thuốc giảm đau thích hợp. Nếu đã có viêm phúc mạc, thầy thuốc nên có hội chẩn và can thiệp ngoại khoa.
Nên siêu âm, xác định có sỏi túi mật, sỏi đường mật và giun chui ống mật hay khôngvà tùy theo tình trạng toàn thân và biểu hiện lâm sàng, sẽ có chỉ định can thiệp bằng các thủ thuật: cắt túi mật, mổ nội soi lấy sỏi túi mật, đường mật và cơ vòng Oddi, nếu có sỏi ống mật chủ hoặc GCOM có thể gắp sỏi hay giun ra khỏi đường mật; nếu không có sỏi đường mật mà OMC bị hẹp do u đường mật, u đầu tụy thì đặt ống dẫn lưu (stent) để dẫn lưu vào tá tràng trước khi các thủ thuật khác tiến hành.
Điều trị theo y học cổ truyền
(Traditional medicin)
Gần đây một phương thuốc được áp dụng trong y học cổ truyền, song chưa có số liệu cụ thể chứng minh chúng có hiệu quả trong điều trị sán lá gan lớn là dùng hạt bí đỏ sống hoặc rang chín, ăn lúc đói buổi sáng sớm, lần ăn khoảng 1 chén, có thể dùng kèm theo hạt cau và rễ lựu.
Một bài thuốc khác, hiện đang được các nhà lương y, y học cổ truyền nghiên cứu ứng dụng điều trị bệnh sán lá gan lớn và nhỏ, bài thuốc gồm có: sài hồ bắc, hương phụ, sử quân tử, binh lang và uất kim với lượng như sau: 16g-16g-12g-12g-12g, sắc 3 lần, trộng 3 lần nước sắc vào nhau, khi uống cho một thìa cà phê dấm thanh, uống lúc trước và sau 9giờ sáng (tài liệu chưa công bố).
Điều trị ngoại khoa
(Surgical treatment)
Trong một số trường hợp, điều trị sán lá gan cần thiết kết hợp nội ngoại khoa như sán lá gan gây abces gan doạ vở hoặc vở ra khỏi bao gan hoặc vở lên các tạng lân cận (tim, cơ hoành, phổi, cột sống, tuỵ. Sau khi điều trị bằng thuốc triclabendazole, thầy thuốc lâm sàng thấy cần thiết để can thiệp ngoại khoa thì tiến hành làm:+Nếu ổ tụ (máu hoặc dịch, mật) quá lớn không thể điều trị nội khoa với các thuốc kháng viêm vượt hy vọng sẽ hấp thu dịch trở lại, có nguy cơ vở thì chúng ta can thiệp ngoại khoa. Hoặc là chọc hút dịch (ponction du foie) hoặc phải mổ nội soi (endostomie) để giải phóng ổ dịch tụ dưới cơ hoành và màng phổi; nếu có cặn màng phổi và dịch bao gan quá nhiều, sau tháo dịch phải bơm dung dịch nước muối sinh lý để rửa.
+Nếu sán lá gan tồn tại số lượng nhiều gây chít hẹp đường mật hoặc tuỵ phải tiến hành mở ống mật chủ (cholestomie) hoặc sử dụng phương pháp ERCP (can thiệp bằng nội soi mật tuỵ ngược dòng) để cắt cơ vòng rồi giải phóng lượng sán ra ngoài. Chăm sóc hậu phẩu cho bệnh nhân tương tự như một trường hợp mổ ở bệnh hệ thống gan,mật, tụy.