Trong tháng 05/2007, Trung tâm Phòng chống Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Thừa Thiên Huế đã điều tra tình hình nhiễm giun sán trên đối tượng học sinh mẫu giáo tại địa phương để có cơ sở tiến hành thực hiện quyết định số 3893 QĐ-BYT ngày 11/10/2007 của Bộ Y tế về việc hướng dẫn bổ sung vitamin A kết hợp vớitẩy giun đường ruột cho trẻ em từ 12 đến 60 tháng tuổi. Tại trường mẫu giáo Mầm Non I và II của thành phố Huế, điều tra 440 mẫu phân ghi nhận tỷ lệ nhiễm giun sán chung thấp 0,91 %, chủ yếu là nhiễm giun đũa nhưng đã phát hiện 1 học sinh 5 tuổi bị nhiễm sán lá ruột. Do muốn tìm hiểu sự liên quan, đã xét nghiệm phân của người mẹ 36 tuổi và người cha 40 tuổi cũng phát hiện nhiễm sán lá ruột (gia đình ở đường Đào Duy Anh, thành phố Huế). Như vậy cả nhà cha, mẹ và con đều bị nhiễm sán lá ruột nên rất lo lắng. Gia đình hỏi bệnh sán lá ruột có nguy hiểm không ?
Đặc điểm của sán lá ruột (Fasciolopsis buski)
Sán lá ruột (Fasciolopsis buski) phân bố phụ thuộc vào tình hình sinh hoat và yếu tố địa lý từng vùng. Những nơi có nhiều hồ ao và sử dụng hồ ao trồng các loại cây thủy sinh dùng làm thức ăn cho người hoặc gia súc thì sán lá ruột có điều kiện phát triển và gây bệnh. Ở Việt Nam, trước năm 1924, người có tỷ lệ nhiễm sán lá ruột cao, sau đó giảm dần đi và hiếm bắt gặp được ở người nhưng khá phổ biến ở lợn; có khi 80 % lợn bị nhiễm sán lá ruột.
Sán lá ruột dài từ 30-70 mm, chiều ngang từ 14-15 mm. Trứng sán có chiều dài 125-140 mc, chiều ngang 75-90 mc, có màu sẫm và kích thước lớn hơn các loại trứng giun sán khác nên dễ phát hiện. Sán lá ruột sống ký sinh ở ruột non, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài và tiếp tục chu kỳ phát triển ở ngoại cảnh như các loại sán lá khác. Ấu trùng dần dần được hình thành ở trong trứng, với điều kiện nhiệt độ thích hợp thì sau 2-3 tuần ấu trùng lông phát triển hoàn chỉnh. Ấu trùng lông phá bỏ vỏ trứng thoát ra ngoài, tự do di động tìm đến loài ốc nước ngọt là vật chủ thích hợp để ký sinh trong khoảng thời gian từ 6-52 giờ, nếu quá thời gian này ấu trùng lông không tìm được vật chủ thích hợp thì ấu trùng lông sẽ bị chết. Ở trong cơ thể loài ốc, ấu trùng lông phát triển thành bào ấu, sau khoảng 5 tuần sẽ hình thành hàng loạt ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời vỏ ốc và bơi đến sống bám vào lá, vào củ của một số loài thực vật thủy sinh như củ ấu, củ niễng, ngó sen, bèo ... Ở những vùng có ao hồ với nhiều củ ấu (Trapa natans và Trapa bicornis) thì sán lá ruột có điều kiện lưu hành và gây bệnh. Người thường ít ăn các loại thức ăn được chế biến từ củ ấu, củ niễng, ngó sen còn sống nên tỷ lệ mắc bệnh sán lá ruột không cao. Trái lại nếu chăn nuôi lợn bằng thức ăn từ cây bèo sống thì lợn sẽ dễ bị nhiệm bệnh sán lá ruột. Khi ấu trùng xâm nhập vào cơ thể người hoặc lợn, chúng sẽ thoát vỏ nang ở tá tràng của vật chủ, bám vào ruột non để ký sinh và phát triển thành sán trưởng thành. Thời gian này mất khoảng 90 ngày.
Bệnh do sán lá ruột gây nên  |
| Hình ảnh sán lá ruột . |
Sán lá ruột gây nên bệnh với triệu chứng lúc đầu nhẹ như cảm thấy mệt mõi, sức khoẻ giảm sút. Sau đó bệnh nhân thấy đau bụng kèm theo tiêu chảy, triệu chứng này xảy ra thất thường. Phân lỏng, không có máu nhưng có nhiều chất nhầy lẫn với thức ăn không tiêu. Tiêu chảy có thể kéo dài nhiều ngày hoặc nhiều tuần. Bệnh nhân kêu đau ở vùng thượng vị, có khi cơn đau xảy ra rất dữ dội, cơn đau thường đi kèm theo tiêu chảy. Trẻ em có bụng bị chướng và sức khoẻ toàn thân giảm sút nhanh chóng. Nếu bị nhiễm sán nhiều và không được phát hiện, điều trị kịp thời thì bệnh chuyển qua giai đoạn nặng làm cho ruột non bị phù nề và viêm, hiện tượng này có thể lan đến tận ruột già. Niêm mạc ruột có thể bị sùi, có những đám xung huyết hoặc xuất huyết tương ứng với vị trí bám của sán; đường kính của ruột bị giãn nở gây rối loạn tiêu hóa, một số trường hợp có thể bị tắc ruột. Nếu bị bội nhiễm thêm vi khuẩn ở những chỗ bị tổn thương thì có hiện tượng viêm và sưng những hạch mạc treo. Ngoài ra, những chất độc tố của sán tiết ra sẽ gây nên những thương tổn và rối loạn chung như toàn thân bị phù nề, tràn dịch ở nhiều nội tạng nhất là ở tim và phổi, bị cổ trướng, lá lách biến đổi tổ chức, có tình trạng thiếu máu, hồng cầu giảm, huyết cầu tố giảm, bạch cầu toan tính tăng 15-20 %. Bệnh nhân có thể chết trong tình trạng bị suy kiệt nặng.
Chẩn đoán bệnh sán lá ruột thường căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng như tiêu chảy, phù nề, suy nhược cơ thể. Xét nghiệm máu thấy có sự gia tăng của bạch cầu toan tính. Xét nghiệm phân phát hiện được trứng sán lá ruột với hình thể và kích thước đặc trưng rất dễ nhận biết.
Điều trị và phòng bệnh sán lá ruột
Hiện nay bệnh sán lá ruột được điều trị đơn giản bằng thuốc đặc hiệu praziquantel, viên 500mg. Thuốc sử dụng cho trẻ em trên 2 tuổi và người lớn, uống liều duy nhất 40mg/kg cân nặng.
Để phòng bệnh sán lá ruột có hiệu quả, không nên ăn các loại thực vật mọc ở dưới nước không được nấu chín như củ ấu, củ niễng, ngó sen ... Cần quản lý tốt phân thải của người và lợn một cách hợp vệ sinh, không dùng phân thải của người và lợn để bón cho những loại cây trồng ở dưới nước. Ngoài ra phải tích cực phát hiện, điều trị những người có mang mầm bệnh sán lá ruột để chủ động ngăn ngừa sự lây lan cho cộng đồng.