Theo thông báo của PGS.TS. Phạm Văn Lình, Hiệu trưởng và TS.BS. Trương Quang Ánh, Chủ nhiệm bộ môn Ký sinh trùng Trường Đại học Y Dược Huế; trong năm 2005 và 2007, tại bệnh viện của trường đã phát hiện được 3 bệnh nhân bị bệnh ấu trùng sán lợn (Cysticercosis) ký sinh ở mắt và não. Bệnh ấu trùng sán lợn ký sinh tại mắt và não là một bệnh ít gặp nên các cơ sở y tế cần có sự quan tâm trong việc phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh:
Bệnh ấu trùng sán lợn (Cysticercosis) là do những ấu trùng của sán dây lợn (Taenia solium) ký sinh ở trong bắp cơ, trong mắt, trong não người gây nên. Người bị bệnh do ăn phải trứng sán dây lợn, trứng vào dạ dày và ruột nở ra ấu trùng, ấu trùng xuyên qua thành ống tiêu hóa vào máu và di chuyển đến ký sinh ở các cơ vân, ở mắt, ở não ... Những người bị nhiễm sán dây lợn trưởng thành trong ruột, khi đốt già rụng, do hoạt động của nhu động ruột mà đốt sán trào ngược lên dạ dày. Trong trường hợp này xem như bệnh nhân ăn phải trứng sán dây lợn với số lượng vô cùng lớn từ đốt sán và số nang sán ở trong người cũng rất nhiều. Bệnh xảy ra ở những người thường có tập quán ăn rau sống hoặc đã bị nhiễm sán dây lợn trưởng thành (Taenia solium) và bệnh phân bố rải rác ở ít nhất 49 tỉnh, thành phố trong cả nước với tỷ lệ nhiễm khoảng 5-7 %.
Các trường hợp bị mắc bệnh:
Bệnh ấu trùng sán lợn ở mắt:
Bệnh nhân Nguyễn Văn Th., nam giới 36 tuổi, ở Quảng Trạch, Quảng Bình; sinh viên đang học tại trường Đại học Y Dược Huế. Ngày 20/02/2005 bệnh nhân vào bệnh viện của trường với triệu chứng nhức đầu, thị lực yếu và mắt bên phải có nhãn cầu bị lồi ra. Tiền sử bệnh nhân không có gì đặc biệt, có sở thích ăn phở bò tái, thịt lợn nướng. Khoảng 3 tháng trước khi bệnh nhân vào bệnh viện, thường có các triệu chứng như nhức đầu thường xuyên, mắt bên phải bị mờ, có rối loạn thị giác, mí mắt bị sưng, không đau, nhãn cầu bị lồi ra; đi đại tiện có lúc thấy những đốt sán dính theo phân và thỉnh thoảng bị lên cơn động kinh, bất tỉnh, mất tri giác. Cơn động kinh này xảy ra khoảng 2-3 lần mỗi tháng nên bệnh nhân đến điều trị tại Khoa Tâm thần, Bệnh viện Trung ương Huế. Tại đây chẩn đoán bệnh nhân bị động kinh chưa rõ nguyên nhân và được điều trị ngoại trú bằng các loại thuốc an thần như seduxen, aminazin. Tình trạng bệnh không được cải thiện, bệnh nhân vẫn thường lên cơn động kinh, co giật ... nên vào bệnh viện trường để điều trị. Căn cứ vào tiền sử, bệnh sử và các triệu chứng trên lâm sàng, bệnh nhân đã được tiến hành một số chẩn đoán cận lâm sàng cần thiết với kết quả xét nghiệm phân phát hiện có trứng sán dây lợn, công thức máu có bạch cầu lympho 48%, bạch cầu ưa axít 6%; thị lực cả mắt phải và trái là 8/10, soi đáy mắt thấy phù nề ở mắt phải; chụp CT scanner thấy có hình ảnh khối u tổn thương ở mắt phải. Bệnh nhân được chẩn đoán u nang do ấu trùng sán lợn ở mắt phải và điều trị nội khoa bằng thuốc đặc hiệu praziquantel 35mg/kg cân nặng/ngày trong 12 ngày, sau 10 ngày điều trị đợt tiếp theo trong 3 tháng liên tục. Kết quả sau can thiệp điều trị: mắt phải hết lồi, mất các triệu chứng đau đầu, động kinh, co giật; thị lực mắt 10/10, đáy mắt phải hết phù nề; CT scanner thấy khối u đã được thoái triển. Bệnh nhân sinh hoạt, học tập và làm việc trở lại bình thường. Mặc dù bệnh được điều trị bằng thuốc praziquantel dài ngày, có sự kiểm soát chặt chẽ nhưng phản ứng phụ xảy ra không đáng kể.
Bệnh ấu trùng sán lợn ở não:
Trường hợp thứ nhất: Bệnh nhân Võ Trọng B., nam giới 45 tuổi, ở phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai vào bệnh viện của trường ngày 03/01/2007 với triệu chứng bị nhức đầu nhiều ở bên phải, mắt trái nhìn mờ, song thị, tay trái cử động yếu, thỉnh thoảng có các cơn co giật nhẹ, giảm khả năng vận động ... Bệnh nhân thường ăn thịt rừng nướng, phở bò tái, tiếp cận nhiều với vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán chăn nuôi gia súc thả rong. Vào cuối năm 2006, bệnh nhân hay bị nhức đầu, tay chân yếu, hoạt động không tự chủ và đầu năm 2007 bị lên cơn co giật phải vào điều trị tại bệnh viện tỉnh Gia Lai. Tại đây chẩn đoán trong não có khối u sau khi khám và chụp CT scanner, bệnh nhân được chuyển đến bệnh viện của trường để phẩu thuật bằng dao gamma. Dựa vào bệnh sử và các triệu chứng lâm sàng được ghi nhận, bệnh nhân được thực hiện thêm các xét nghiệm cận lâm sàng với kết quả hồng cầu 4,5 triệu, bạch cầu đa nhân trung tính 53%, bạch cầu lympho 41%, bạch cầu ưa axít 4%, thị lực cả hai mắt 8/10, đáy mắt không thấy thương tổn, xét nghiệm phân không có trứng sán dây lợn, thử nghiệm Elisa có hiệu giá kháng thể 1/800; chụp CT scanner, MRI phát hiện có một ổ tổn thương 10 mm, ở hồi trán giữa bên phải ngay trước rãnh trung tâm, ổ tổn thương ngấm thuốc rõ rệt và phù nề mô não chung quanh, não thất không bị giãn. Bệnh nhân được nghĩ đến khối u ở não do ấu trùng sán lợn và điều trị bằng thuốc đặc hiệu praziquantel với liều 30 mg/kg cân nặng/ngày trong 12 ngày, sau đó 10 ngày điều trị tiếp một đợt khác và trong 4 đợt liên tục. Sau 3 tháng can thiệp điều trị, vào ngày 31/03/2007 bệnh nhân tái khám với tình trạng được cải thiện, hết nhức đầu, tay trái cử động bình thường, mắt nhìn rõ, hết song thị, đáy mắt không thương tổn, thị lực hai mắt 10/10, Elisa có hiệu giá kháng thể 1/600. CT scanner, MRI so kết quả chụp lần đầu và chụp lại lần thứ hai ngày 13/07/2007 cho thấy ổ thương tổn còn 8 mm, ở hồi trán giữa bên phải ổ tổn thương thoái hóa dần, tính chất ngấm thuốc ở nơi thương tổn và phù nề nhu mô não chung quanh giảm rõ rệt , các não thất không giãn, không thấy xuất hiện tổn thương mới và tiến triển thêm, bệnh ổn định.
Trường hợp thứ hai: Bệnh nhân Lê Thanh H., nam giới 70 tuổi, ở phường 1, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên; vào bệnh viện trường ngày 16/07/2007 với triệu chứng liệt mặt bên phải và liệt nửa người bên phải. Bệnh nhân thường hay ăn thịt lợn nướng, hun khói và thịt bò tái. Trước khi vào bệnh viện trường 2 tháng, bệnh nhân thường nhức đầu nhẹ, sau đó bị méo miệng về bên trái, tay phải yếu không cử động được, không nắm được vật dụng; dần dần chân phải cũng yếu và không cử động được. Bệnh nhân khám tại Trung tâm Y tế Hoàn Vũ và được chuyển đến điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Ở đây khám, làm các chẩn đoán cận lâm sàng cần thiết. Các triệu chứng đều bình thường nhưng chụp quang tuyến thấy phổi tràn dịch, hai phế quản đậm nghi do bệnh lao; CT scanner ngày 02/07/2007 thấy tổn thương đa u nang ở hai bán cầu đại não, nghi ngờ do di căn ung thư chưa rõ nguồn gốc và được điều trị ngoại trú; bệnh không có chuyển biến nên người bệnh đến bệnh viện trường để xin được điều trị phẩu thuật bằng dao gamma. Bệnh nhân được khám và ghi nhận các triệu chứng bệnh lý như tay chân phải cử động yếu, không hoạt động tự chủ được, liệt dây thần kinh mặt ngoại biên bên phải, bạch cầu 12.300 (N 78%, L 58%, E 22%), thử nghiệm chẩn đoán miễn dịch huỳnh quang ký sinh trùng sán dây lợn cho phản ứng (+), chụp phim phổi cắt lớp thấy phổi không xẹp, thâm nhiễm kẻ dạng nhiều nốt nhỏ <0,3cm rải khắp trong nhu mô phổi cả hai bên. CT scanner cắt lớp ở não cho thấy có 6 ổ khối u nhỏ ở hai bên bán cầu não, kích thước nhỏ 20mm, khối u tròn, không có chân, bên trong có hoại tử trắng đều trên phim. Căn cứ vào các dữ liệu thu thập được trên bệnh nhân, bệnh viện hội chẩn và thống nhất với chẩn đoán u não do ấu trùng sán lợn, chỉ định điều trị nội khoa, không can thiệp phẩu thuật dao gamma. Bệnh nhân được điều trị đặc hiệu bằng thuốc praziquantel, viên 600mg, uống 3 viên/ngày trong một đợt 20 ngày, diễn biến lâm sàng có tiến triển tốt, sức khoẻ phục hồi dần và xuất viện. Sau khi về nhà, bệnh nhân được điều trị ngoại trú tiếp tục 5 đợt, mỗi đợt 15 ngày với liều lượng thuốc praziquantel 2 viên/ngày; khoảng cách giữa các đợt cách nhau 15 ngày. Bệnh nhân tái khám vào ngày 08/10/2007 với thể trạng tốt, tay chân vận động trở lại bình thường, còn liệt nhẹ dây thần kinh mặt, chụp phim phổi thấy các nốt thâm nhiễm biến mất, hai phế trường sáng, cuống phổi hơi đậm. Đặc biệt chụp CT scanner ở não thấy các khối u đã thoái triển, chỉ còn lại 2 khối u nhỏ, kích thước 10-15mm, bên trong đã hoại tử trắng, không có chân, không có phù nề chung quanh khối u, không có hình ảnh bất thường ở hai bán cầu não. Xét nghiệm phân và thử nghiệm Elisa phát hiện sán dây lợn có kết quả (-). Từ những chẩn đoán ban đầu như ung thư phổi di căn lên não, nấm phổi, lao phổi ... bệnh nhân đã được xác định bệnh do ấu trùng sán lợn ký sinh tại não thể hiện bằng các khối u và được điều trị đặc hiệu thuốc praziquantel có kết quả tốt.
Khuyến nghị:
Qua 3 trường hợp bệnh nhân bị bệnh ấu trùng sán lợn (Cysticercosis) ký sinh tại mắt và não được phát hiện, chẩn đoán và điều trị thành công tại bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Đây là một loại bệnh ít gặp, diễn biến lâm sàng phức tạp với các triệu chứng có liên quan đến nhiều bệnh khác nên các cơ sở y tế thường không quan tâm. Vì vậy khuyến nghị các cơ sở điều trị cần chú ý đến các yếu tố dịch tễ, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng cần thiết, đầy đủ của bệnh nhân để có thể chẩn đoán bệnh một cách chính xác và chỉ định điều trị thích hợp, giúp người bệnh phục hồi lại sức khoẻ một cách nhanh chóng, sinh hoạt, lao động trở lại bình thường.