TT | Vùng SRLH | GĐ SR | Loài | Triệu chứng | PT. cắt lách | Kết quả |
1 | Không | Mạn | P.malariae | Sốc, LUQ, dấu Kehr | Có | Sống |
2 | Không | Cấp | P.vivax | LUQ, dấu Kehr | Có | Sống |
3 | Không | Cấp | P. falciparum | Không | Không | Sống |
4 | Không | Cấp | P.vivax | Sốt, LUQ, dấu Kehr | Có | Sống |
5 | Không | Cấp | P.vivax | Không số liệu | Có | Sống |
6 | Không | Cấp | P.vivax | Không số liệu | Có | Sống |
7 | Không | Cấp | P.vivax | Không số liệu | Có | Sống |
8 | Không | Cấp | P. falciparum | LUQ, dấu Kehr | Có | Sống |
9 | Không | Cấp | P. vivax | Sốt, đau lưng, sốc nặng | Không | Tử vong |
10 | Không | Cấp | P. vivax | Sốt, hạ HA, máu phúc mạc | Không | Sống |
11 | Không | Cấp | P. falciparum | Tụt HA, máu phúc mạc | Có | Sống |
12 | Không | Cấp | P. falciparum | LUQ, sốt | Có | Sống |
13 | Có | Cấp | P. vivax | LUQ, mạch nhanh | Có | Sống |
14 | Không | Cấp | P. malariae | Sốt, LUQ, đau đầu | Không | Sống |
15 | Có | Cấp | P. vivax | Sốt, LUQ | Có | Sống |
16 | Có | Cấp | P. vivax | Sốt, mạch nhanh, ngất | Có | Sống |
* LUP: Đau hạ sườn trái
Lách lớn rất hay gặp ở những vùng sốt rét lưu hành trên thế giới, chiếm gần 50 - 80% dân số sống trong vùng sốt rét. Khi lách có thể sờ thấy được nghĩa là bệnh nhân đã xuất hiện triệu chứng được 3 - 4 ngày. Nếu bệnh không được điều trị thì lách tiếp tục to lên, dẫn đến kích thước trung bình của lách trong quần thể lớn hơn vì tỷ lệ hiện mắc sốt rét tăng lên. P. vivax được xem có liên quan mật thiết với vỡ lách tự nhiên và mắc phải. Trong số những ca được báo cáo sau năm 1960, thì 9/15 ca là do P.vivax (4 ca nhiễm trùng tự nhiên và 5 ca nhiễm trùng mắc phải), tất cả bệnh nhân được mô tả ở trên đều mắc P.vivax. và điều đáng chú ý vỡ lách tự phát thường xảy ra trong đợt cấp và cơn sốt sơ phát.
Cơ chế chính xác của vỡ lách tự phát đến nay vẫn chưa được hiểu thấu đáo. Tuy nhiên,có 3 cơ chế đang được đưa ra và có thể phần nào giúp các nhà khoa học dựa vào đó để đưa ra các cảnh báo sớm: [1] Sự gia tăng áp lực trong xoang lách, điều này là do tăng sản tế bào lách và ứ máu trong toàn bộ xoang lách; [2] Lách có thể bị chèn ép bởi cơ bụng theo hoạt động sinh lý như đại tiện, hắt hơi, ho, ngồi, nằm xuống và [3] Sự tắc nghẽn các mạch do quá trình tăng sản hệ lưới nội mô, dẫn đến cục nghẽn bít tắt và nhồi máu tại chỗ. Điều này đưa đến xuất huyết dưới vỏ và vùng liên thuỳ của lách và có thể bóc toàn bộ vỏ lách, gây xuất huyết nặng hơn ở vỏ lách. Hậu quả vỡ lách bị phù nề này sẽ toác ra.
Theo bệnh học, vỡ lách tự phát bao gồm biến đổi hình ảnh vi, đại thể. Về mặt đại thể, lách trong sốt rét cấp tính thường có màu đỏ nâu vì sung huyết, ứ máu và lắng đọng nhiễm sắc. Bao ngoài của lách thì mỏng và dể rách. Lách trong bệnh nhân sốt rét, đặc biệt sốt rét mạn tính và tái nhiễm nhiều lần thì thường màu xám đen, tăng mật độ mô liên kết và mô sợi, dẫn đến tăng trọng lượng lách, thường phì đại kèm theo mật độ cứng, chắc. Ngoài ra, sự xé rách của bao lách ở một hay vài chỗ trong nhu mô lách bên dưới có thể thấy được. Vết rách này có thể nhỏ hay lớn (từ độ I -IV) và có thể ở bất cứ vị trí nào trên bề mặt lách. Cả 2 ca được mô tả ở trên, đều có lách phì đại. Vi thể, cho thấy nhiều hạt sắc tố, hồng cầu nhiễm ký sinh trùng sốt rét và hồng cầu chưa bị nhiễm và một quá trình tăng sinh đại thực bào trong các mao mạch, xoang tĩnh mạch và vùng tuỷ lách. Sự sung huyết và dãn mạch xoang cùng với bít tắt mạch rãi rác, mao mạch với tuỷ lách nhiều nốt hoại tử.
Phẩu thuật cắt lách được xem như một lựa chọn duy nhất trong điều trị các trường hợp vỡ lách tự phát do sốt rét. Trong số 16 bệnh nhân được mô tả từ năm 1960, thì 13 bệnh nhân được điều trị phẩu thuật cắt lách. Tất cả các ca này đều được cắt bỏ toàn bộ lách. Trong những vùng không lưu hành sốt rét, phương pháp giải phẩu được cải thiện và được xem như điều trị hỗ trợ, giúp cho việc săn sóc trước và sau mổ tốt hơn, giúp giám sát tình trạng lách vỡ trong nhiều trường hợp chấn thương xuyên lách hay bị một vật cùn đâm thấu vào nhu mô lách. Điều trị bảo tồn (không phẩu thuật cắt lách) bao gồm theo dõi bênh nhân 7-14 ngày tại bệnh viện, nằm nghỉ tại giường tuyệt đối,, cho truyền dịch và máu (nếu cần thiết). Trong nhiều vùng sốt rét lưu hành, quản lý bệnh nhân vỡ lách tự phát cũng nên cố gắng không phẩu thuật mà điều trị bảo tồn. Với những bệnh nhân thường xuyên đi du lịch đến những vùng sốt rét. Phẩu thuật cắt lách nên được dành cho những bệnh nhân bị vỡ lách nghiêm trọng, liên tục chảy máu hoặc chảy máu tái phát. Nói chung, sự thay đổi cấu trúc của lách trong quá trình mắc sốt rét có thể dẫn đến phì đại lách hoàn toàn không có triệu chứng gì hay nếu có, thì biến chứng hình thành một u máu và vỡ u máu này và chúng ta nên lưu ý phơi nhiễm đầu tiên với sốt rét, đặc biệt là nhiễm P. vivax dường như là những yếu tố quan trọng trong vỡ lách tự phát.
2. Một số biến chứng khác
2.1. P. vivax gây giảm bạch cầu nghiêm trọng biến chứng thể não và não úng thủy
Một trường hợp 4 tuổi và 1 trường hợp 1 tuổi nhiễm sốt rét do P. vivax được báo cáo có liên quan đến các biến chứng trên hệ thần kinh trung ương. Cả 2 trường hợp đều biểu hiện bệnh lý não và xuất hiện cơn động kinh. Một trường hợp có biểu hiện giảm bạch cầu nghiêm trọng, xuất huyết nội sọ tụ thành khối lớn và não úng thủy cần phải phẩu thuật đặt shunt trong khi các đặc điểm khác về hệ tiêu hóa có rất ít. Cả hai trường hợp đáp ứng tốt với quinine nhưng có di chứng (Rekha Harish và cs.,2007).
2.2. Tổn thương phổi cấp do sốt rét P.vivax
Nhóm tác giả gồm Tan LK, Yacoub S, Scott S, Bhagani S, Jacobs M đang công tác tại khoa truyền nhiễm, bệnh viện Royal Free Hospital, London, Anh Quốc vừa cho biết từ lâu sốt rét do P.vivax là sốt rét lành tính nhưng gần đây đã nhận ra là bệnh có những biến chứng đe dọa tính mạng đang gia tăng. Ca bệnh này là một đối tượng vừa đi du lịch trở về và nhiễm phải P. vivax, dẫn đến tổn thương phổi cấp trong vòng 3 ngày điều trị.
2.3. Sốt rét do P. vivax gây biến chứng sốc và hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS)
Nhóm tác giả Sathish Kumar, Mark Melzer, Paul Dodds, Julie Watson và Rosalynn Ord đang công tác tại khoa vi sinh, bệnh viện King George, Goodmayes, Essex, Anh và bệnh viện bệnh nhiệt đới, Mortimer Market, London, Anh báo cáo ca bệnh nhiễm P. vivax có biến chứng sốc và hội chứng suy hô hấp cấp tính. Bệnh nhân đáp ứng tốt với liệu pháp CQ và primaquine. Điều tránh nghi ngờ là trên bệnh nhân này đã thực hiện xét nghiệm PCR và kết quả cho thấy dương tính với P. vivax DNA và âm tính với P. falciparum DNA. P. vivax có thể gây nên các biến chứng nặng và ở đó có thể nhiễm đồng thời 2 loại ký sinh trùng, mẫu máu nên làm xét nghiệm PCR để phân tích để loại trừ trường hợp nhiễm phối hợp.
2.4. Thiếu máu và giảm bạch cầu trên trẻ em nhiễm sốt rét P. vivax
Nhóm tác giả Alfonso J. Rodríguez-Morales, Elia Sánchez, Miguel Vargas, Carmelina Piccolo, Rosa Colina và Melissa Arria từ Trung tâm nghiên cứu ký sinh trùng, JWT, đại học Los Andes, Trujillo, Venezuela và Đơn vị bệnh truyền nhiễm thuộc bệnh viện Santos Anibal Dominicci, Sucre, Venezuela cho biết các đặc điểm dịch tễ học lâm sàng trên các bệnh nhân nhi sốt rét do P. vivax đã gây nên thiếu máu và giảm tiểu cầu đòi hỏi phải nhập viện. Trong thời gian hơn 3 năm, tổng số 78 trẻ nhiễm P. vivax nhập viện Sucre, Venezuela. Các đặc điểm lâm sàng lúc nhập viện là sốt (93.59%), rét run (41.03%) và đau đầu (14.10%). Về mặt cận lâm sàng, thiếu máu (94.87%) trong đó thiếu máu nặng chiếm đến 10.26%, suy dinh dưỡng 25.64% và 10.26% có ký sinh trùng trong đường ruột. Nồng độ Hb trung bình lúc nhập viện là 8.09 g/dl và tiểu cầu trung bình 127.402 tế bào/mm3. Trong số các bệnh nhi này thì 58.97% phát triển thành giảm tiểu cấu (trong đó 24.36% bị nặng), số ca đòi hỏi phải truyền máu là 25.64%. Sau khi điều trị bằng thuốc CQ và primaquine và chăm sóc khác, tất cả bệnh nhân đều thành công và xuất viện. Không có tử vong hoặc xuất hiện thêm biến chứng, ngoại trừ còn 17.95% số bệnh nhân vẫn còn giảm tiểu cầu mức độ vừa.
2.5. Phù phổi cấp do sốt rét P. vivax
Các tác giả C. Illamperuma và B. L. Allen từ khoa y, đại học y Indiana, Indianapolis, Mỹ và và Richard L. Roudebush thuộc trung tâm y khoa VA Medical Center, khoa truyền nhiễm, 1481 West, Indianapolis, Mỹ cho biết phù phổi cấp được phát hiện từ lâu là các biến chứng của sốt rét ác tính do P. falciparum nhưng hiếm khi do P. vivax. Ở đây, họ cho biết một bệnh nhân người lớn không có miễn dịch bị nhiễm P. vivax ngoại lai đã hình thành biến chứng phù phổi cấp trong quá trình điều trị. Sau đó biến chứng này cứ tái hồi sau khi thất bại điều trị với Quinine và Doxycycline sau đó cho thêm primaquine. Điều cần thiết là cần nhận ra dấu chứng sớm của bệnh và quản lý ca bệnh tốt khi bệnh nhân nhiễm P. vivax cũng như kiến thức về thất bại điều trị đối với các thể ngủ trong gan.
2.6. Giảm tiểu cầu nặng và chảy máu mũi thứ phát (Epistaxis Secondary) do sốt rét P. vivax
Các tác giả Benjamin H. Holland B.S thuộc đại học y khoa Mercer, Anna N. Walker thuộc khoa bệnh học, đại học y khoa Mercer; Lee Collier thuộc khoa nội, bệnh viện Taylor Regional Hospital và Jeffrey L. Stephens của khoa nội nhiễm, bệnh viện Mercer cho biết từ trước đến giờ người ta vẫn ý niệm sốt rét do P.vivax là lành tính hiếm khi gây tử vong. Trong khi biến chứng giảm tiểu cầu là biến chứng dễ nhận ra do sốt rét P. falciparum, thì ở đây rất hiếm khi báo cáo là do P. vivax. Ca bệnh báo cáo này là một người di dân Mexico, đến viện với triệu chứng ban đầu là P. vivax và dấu hiệu đáng kể là giảm tiểu cầu và chảy máu mũi tự phát, ban đầu không đáp ứng với liệu pháp truyền tiểu cầu. Qua trường hợp này, các thầy thuốc bất cứ nơi đâu nên cảnh giác cả các đặc điểm lâm thường gặp và không thường gặp của sốt rét, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời là những chìa khóa giúp hạn chế tối thiểu tỷ lệ mắc bệnh và tử vong.
2.7. Sốt rét do P. vivax với hình ảnh lâm sàng giống như sốc nhiễm độc (toxic shock)
Nhóm tác giả Joon Young Song, Cheong Won Park, You Mee Jo, Jeong Yun Kim, Jeong Hyun Kim, Hyo Joong Yoon, Chi Hoon Kim, Chae Seung Lim, Hee Jin Cheong và Woo Joo Kim thuộc các khoa nhiệt đới, khoa nội và khoa cận lâm sàng của đại học y khoa Korea, Seoul, Hàn Quốc và Armed Forces Byeokje Hospital, Kyonggi, Hàn Quốc cho biết các biến chứng do sốt rét P.falciparum dẫn đến tử vong từ lâu đã được báo cáo rất nhiều. Tuy nhiên, sốt rét do P. vivax có biến chứng thì hiếm, ở đây nhóm tác giả báo cáo 2 trường hợp có hình ảnh lâm sàng của sốt rét P. vivax biểu hiện một sốc nhiễm độc. Cả 2 đều có tình trạng đông máu nội mạch rải rác (DIVC), điển hiển hình là giảm tiểu cầu nặng, suy thận thiểu niệu và phù phổi. Xét nghiệm lam máu ban đầu cho kết quả P. vivax với mật độ ký sinh trùng sốt rét là 2.352/µL và 12.376/µL lần lượt trên 2 bệnh nhân. Các bệnh nhân được điều trị bằng hydroxychloroquine và primaquine không kèm kháng sinh. Qua ca bệnh trên, điều quan trọng là cần nhấn mạnh đến khả năng nhiễm ký sinh trùng P. vivax trên các bệnh nhân đặc biệt là khi họ ở vùng lưu hành sốt rét trở về.
2.8. Suy đa phủ tạng do sốt rét P. vivax
Một nhóm tác giả Hàn Quốc gồm Soon AeKim, Eu SukKim, Moo YongRhee, Sang IlChoi, Hee JinHuh, Seok LaeChae đang công tác tại khoa nội, đại học y Dongguk, khoa Chẩn đoán hình ảnh, đại học y quốc gia Seoul và khoa cận lâm sàng y học, đại học y Dongguk, tại Goyang, Hàn Quốc đã cùng nhau mô tả một trường hợp viêm cơ tim liên quan đến sốt rét P. vivax. Biến chứng liên quan đến tim mạch thường liên đới đến sốt rét do P.falciparum. Tuy nhiên, viêm cơ tim (myocarditis) liên quan đến sốt rét do P. vivax chưa được báo cáo trên y văn.
2.9. Các yếu tố góp phần gây biến chứng trên sốt rét do P. vivax
Các biến chứng nặng do sốt rét P. falciparum được xác định vởi sự xuất hiện các thể vô tính của P. falciparum trong máu bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng đe dọa tử vong trên bệnh nhân hoặc biến chứng khác đã bị loại trừ. Thậm chí cho dù các biến chứng này là duy nhất đối với sốt rét do P. falciparum từ lâu được biết. Điều đó không có nghĩa là tất cả ca bệnh sốt rét do P. falciparum đều có thể chuyển thành biến chứng. Tử vong do các trường hợp sốt rét do P. falciparum khoảng 1% và chiếm 1-3 triệu ca tử vong mỗi năm trên thế giới. 80% số tử vong này là sốt rét ác tính thể não. Hầu hết các biến chứng do sốt rét P. falciparum phát triển vài ngày sau khi khởi bệnh. Tuy nhiên, phù phổi cấp đôi khi xuất hiện đột ngột, thậm chí ngay sau khi điều trị bắt đầu có thể do P.vivax, các yếu tố dẫn đến biến chứng sốt rét có biến chứng do P. vivax gồm: [1] người cao tuổi [2] phụ nữ mang thai, đặc biệt trong thai con so và thai kỳ 3 tháng giữa [3] bệnh nhân đang dùng các thuốc ức chế miễn dịch steroids, thuốc chống ung thư, thuốc ức chế miễn dịch [4] Bệnh nhân suy giảm miễn dịch đang mắc lao và ung thư tiến triển [5] bệnh nhân cắt lách; [6] Thiếu các yếu tố phơi nhiễm với sốt rét (không có miễn dịch) hoặc không còn miễn dịch; [7] suy cơ quan trước khi mắc bệnh.
2.10. Sốt rét ác tính thể não do P. vivax trên bệnh nhân người lớn
Một nghiên cứu do nhóm tác giả Suman Sarkar, Prithwis Bhattacharya đang công tác tại khoa gây mê, đại học I.M.S. Banaras Hindu, Varanasi - 221 105, Uttar Pradesh, Ấn Độ cho biết sốt rét ác tính thể não là một bệnh lý não lan tỏa (diffuse encephalopathy) có liên quan đến động kinh có thể xảy ra đến 1/3 số bệnh nhân bị sốt rét nặng, đặc biệt gây ra do P. falciparum. 3 ca bệnh báo cáo ở đây là sốt rét do P. vivax (tất cả đều là bệnh nhân nam người lớn) có biến chứng co giật và biểu hiện một hội chứng bệnh lý viêm não-màng não lan tỏa (diffuse meningoencephalitis). 2/3 bệnh nhân biểu hiện chủ yếu là triệu chứng màng não và 1/3 bệnh nhân là biểu hiện viêm não đơn thuần. Tất cả ca bệnh đều được điều trị bằng Artesunate. Thường thường, sốt rét ác tính thể não là do P. falciparum, và hiếm khi do P.vivax nên những ca như thế này đặc biệt hiếm gặp, cần báo cáo và chia sẻ kinh nghiệm.
2.11. Suy thận cấp do sốt rét P. vivax
Nhóm tác giả KS Mehta, AR Halankar, PD Makwana, PP Torane, PS Satija, VB Shahđang làm việc tại khoa thận niệu, bệnh viện Nair và trường đại học y khoa Nair tại Mumbai, Ấn Độ cho biết họ đang chú ý đến vấn đề đang gia tăng hiện nay về tần suất cũng như mức độ trầm trọng của bệnh lên vấn đề suy thận cấp do sốt rét (acute renal failure_ARF). Họ đã nghiên cứu tỷ lệ, độ nặng và hậu quả của ARF trong bệnh sốt rét; trong một nghiên cứu phân tích hồi cứu một năm tại các trung tâm ở thành phố thủ đô. Tất cả lam máu và bệnh nhân suy thận cấp được đưa vào đánh giá. Tổng số 402 lam máu dương tính với sốt rét, 24 ca có ARF. 18 trường hợp có nhóm tuổi từ 21-40. P. falciparum được phát hiện là 16 và P.vivax là 3, nhiễm phối hợp là 5. Suy thận cấp không có vô niệu tìm thấy trong 14 trường hợp và 18 trường hợp có biểu hiện ARF nặng (creatinine huyết thanh >5 mg%). 22 bệnh nhân cần phải thẩm phân phúc mạc, Suy thận cấp kéo dài 2-6 tuần là 8 trường hợp. 17 bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, trongk ih 7 bệnh nhân khác có biểu hiện tử vong kèm theo tình trạng đông máu nội mạch rải rác (DIC), hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS), suy thận nặng và sốt rét có dương tính với P. falciparum. Không đáp ứng với CQ và Artesunate cho đơn thuần và 20 bệnh nhân phải chuyển sang phác đồ quinine. Nói tóm lại, ARF cần phải thẩm phân phúc mạc trong số 92% bệnh nhân bị ARF. Trong nhiễm P. falciparum, suy thận cấp nặng, DIC và ARDS là những yếu tố tiên lượng nặng. Vấn đề kháng thuốc hay không đáp ứng với thuốc Chloroquine và Artesunate cần làm rõ.
2.12. Ảnh hưởng của sốt rét do P. vivax lên sự kết tập và biến dạng hồng cầu.
Đó là công trình nghiên cứu cơ bản của nhóm Sanjay Jayavanth, K. Jagadeesan, Megha Singh đang công tác tại khoa y sinh học, Viện công nghệ Ấn Độ, Madras-600036, và bệnh viện K.J. Hospital, Madras-600084, Ấn Độ. Sốt rét do P. vivax tác động lên dòng máu của hệ tim mạch , công trình nghiên cứu này nhằm đánh giá sự thay đổi của khả năng biến dạng hồng cầu và ngưng tập hồng cầu trên các bệnh nhân sốt rét và so sánh với nhóm đối chứng là nhóm người bình thường. Các mãu máu của bệnh nhân sốt rét (n = 16), được tuyển chọn dựa trên sự có mặt của ký sinh trùng trong máu và phân loại thành các nhóm từ mật độ thấp đến mật độ cao (LPàMPàHP hay low-medium-high parasitemia), có liên quan đến mức độ của trầm trọng của bệnh. Để đánh giá sự ngưng tập và biến dạng của hồng cầu, người ta dùng kỹ thuật đo ngưng tập laser và đo quang (laser aggregometer và optical hemorheometer), sự treo hồng cầu được chuản bị sẵn trong huyết tương và dung dịch nước muối sinh lý ở nòng độ Hct là 5%.
Kết quả cho thấy khả năng biến dạng hồng cầu giảm đi có ý nghĩa (p < 0.001) theo sự gia tăng của mật độ ký sinh trùng sốt rét trong máu. Dù có sự giảm về tính biến dạng này, song các phép đo ngưng tập hồng cầu lại tăng đáng kể, chỉ ra có sự xuất hiện tăng ngưng tập, đặc biệt trong các bệnh nhân có mẫu máu là MP và HP, do có liên quan đến một số yếu tố khác nhau. Các thay đổi này có thể phần nào góp phần vào những thay đổi về dòng máu, đặc biệt hệ vi tuần hoàn.
2.13. Sốt rét P. vivax và đồng nhiễm liên quan đến sốt rét nặng ở trẻ em Papua New Guinea
Đó là các kết quả sơ bộ ghi nhận từ nghiên cứu của nhóm Blaise Genton, Valérie D'Acremont, Lawrence Rare, Kay Baea, John C. Reeder, Michael P. Alpers, Ivo Müller thuộc Viện Nghiên cứu Bệnh nhiệt đới Thụy Sĩ, Viện Nghiên cứu y học Papua New Guinea (PNG), Goroka, Papua New Guinea. Kinh điển, sốt rét nặng thường liên quan đến Plasmodium falciparum. Một số ít thông tin sẵn có trên y văn cho biết bệnh nặng và ác tính có sự góp phần của P. vivax. Có một vài chỉ tiêu về mặt dịch tễ học mà P. vivax hoặc nhiễm phối hợp với P. vivax sẽ bảo vệ chống lại các biến chứng và tử vong. Giám sát tỷ lệ mắc bệnh quy mô lớn tiến hành tại vùng mà 4 loài cùng tòn tại cho phép chúng ta ước tính con số sót rét ác tính trong số bệnh nhân nhiễm các loài khác nhau.
2.14. Sốt rét ác tính do P. vivax biểu hiện một tình trạng mất cân bằng đáng kể về phản ứng viêm
Một công trình nghien cứu vừa được công bố vào năm 2010 do nhóm tác giả Bruno Andrade Antonio Reis - FilhoSebastiao Souza - NetoJorge ClarencioLuis CamargoAldina BarralManoel Barral - Netto cho biết: mặc dù mô tả về các ca sốt rét ác tính do P.vivax đã được báo cáo trên y văn, song các dữ liệu về mô hình miễn dịch và phản ứng viêm hiếm khi tìm thấy và rất hạn hữu. Trong tạp chí này, trình trạng miễn dịch và viêm nhiễm của cả thể sốt rét thường và sốt rét ác tính do P.vivax được so sánh để khám phá các yếu tố liên quan đến sinh bệnh học miễn dịch của bệnh. Kết quả cho biết qua phát hiện thụ động và chủ động sốt rét tiến hành trong thời gian năm 2007 tại Buritis, Rondonia, vùng Brazilian Amazon. Tổng số 219 người tham gia vào nghiên cứu. Các cá nhân được phân loại theo sự có mặt của nhiễm trùng P.vivax thành 4 nhóm: nhóm không nhiễm (n = 90), nhóm không có triệu chứng (n = 60), nhẹ (n = 50) và nặng (n = 19). Chẩn đoán sốt rét bằng kính hiển vi và thử nghiệm sinh học phân tử. Vì hiện tại chưa có tiêu chuẩn để phân loại sốt rét ác tính do P.vivax một cách rõ ràng, nên nghiên cứu này vận dụng một cách liên ứng như tiêu chuẩn của sốt rét ác tính P.falciparum. Các bệnh nhân sốt rét ác tính nặng do P. vivax là những người trẻ hơn, sống thời gian ngắn hơn trong vùng sốt rét lưu hành, và chưa bị mắc sốt rét lần nào trước đó hoặc rất ít so với các đói tượng trên nhóm không mắc sốt rét hoặc nhóm nhiễm trùng không triệu chứng. Đường cong tuyến tính mạnh được xác định có liên quan đến sự gia tăng của nồng độ C reactive protein (CRP) trong huyết tương, creatinine, bilirubins huyết thanh và sựu tiến triển dẫn đến nặng của bệnh.
Nồng độ của yếu tố hoại tử khối u (TNF) trong huyết tương, interferon-gamma (IFN-gamma) cũng như tỷ số IFN-gamma/interleukin-10 tăng và cho thấy một đường tuyến tính với sự tăng dần dần với mức độ bệnh. Cả thông số cận lâm sàng của các cơ quan bị thương tổn và các cytokines gây viêm đã giảm trong quá trình sử dụng liệu pháp điều trị kháng ký sinh trùng trên các bệnh nhân sốt rét ác tính.
Nói tóm lại, hình thái lâm sàng khác biệt của P.vivax cho thấy có liên quan chặt chẽ với sự hoạt hóa của đáp ứng tiền viêm (activation of pro-inflammatory responses) và mất cân bằng của các cytokine. Các thử nghiệm này cực kỳ quan trọng để nâng cao hiểu biết về các cơ chế sinh lý bệnh học của một căn bệnh được xem là lãng quên nay trở nên rất nặng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Baird JK, Hoffman LS (2004). “Primaquine therapy for malaria”. Clinical and Infectious diseases 39:1336-1345.
2.Baird JK, Caneta-Miguel E et al.,(2003).“Survey of resistance to chloroquine of falciparum and vivax malaria in Palawan, the Philippines”. Ann Pharmacother, 2003 Apr; 37(4):526-9.
3.Barnardas C, Ratsimbasoa A, Tichit M, Bouchier C et al.,(2008).“Plasmodium vivax resistance to chloroquine in Madagasca: clinical efficacy and polymorphisms in pvmdr1 and pvcrt-o genes”. Antimicrob Agents Chemother, 2008 Dec; 52(12):4233-40
4.Bonnard P, Guiard-Schmid JB, Develoux M, Rozenbaum W, Pialoux G. “Splenic infarction during acute malaria”. Trans R Soc Trop Med Hyg. 2005;99:82-6.
5.Baird JK (2009). “Resistance to therapies for infection by Plasmodium vivax”. Clin Microbiol Rev, 2009 Jul;22(3):508-34
6.Brian H.Feighner, Son Il Pak et al., (1998).“Reemergence of Plasmodium vivax malaria in republic of Korea”. http:www.cdc.goc/ncidod/EID.
7.Bruno B A, Antonio R F, Sebastiao et al.,(2010).“Severe Plasmodium vivax malaria exhibits marked inflamatory imbalance”. Malaria Journal 2010, 9:13 doi:10.1186/1475-2875-9-13
8.Chaudhry R, Mahajan RW, Diwan A, Khan S, Singhal R, Chaudel DS, et al (2003). “Unusual presentation of enteric fever: three cases of splenic and liver abscesses due to Salmonella typhi and Salmonella paratyphi A”. Trop Gastroenterol. 2003;24:198-9.
9.Chen N et al.(2007). “Relapse of Plasmodium vivax infection result from clonal hypnozoites activated at predeterminated intervals”. Journal of infectious diseases, 195:934-941.
10.Carlton JM, Adams JH, Silva JC et al.,(2008). “Comparative genomics of the neglected human malaria parasite Plasmodium vivax”. Nature, 2008 Oct 9; 455(72):757-63
11.Cisse B, Sokhna C, Boulanger D, et al (2006).‘Seasonal intermittent preventive treatment with artesunate and sulfadoxine-pyrimethamine for prevention of malaria in Senegalese children: a randomised, placebo-controlled, double-blind trial”. Lancet; 367:659-667.
12.Collines W E, Jeffery GM et al.,(1996). “Primaquine resistance in Plasmodium vivax”. Am J Trop Med Hyg, 1996 Sep; 55(3):243-9
13.Djimde A, Doumbo OK, Cortese JF, et al. (2001). “A molecular marker for chloroquine-resistant falciparum malaria”. N Engl J Med; 344:257-263.
14.Ehrman FC, Ellis JM, Young MD (1945).“Plasmodium vivax Chesson strain”. Science, 1945Apr 13; 1010(2624):377
15.Fryauff DJ, Tuti S, Mardi A et al.,(2004). “Chloroquine resistant Plasmodium vivax in transmigration settlement of West Kalimantan, Indonesia”. Am J Trop Med Hyg; 59 (4):513-8
16.Genton B at al.(2008). “Plasmodium vivax and mixed infection are associated with severe malaria in children: a prospective cohortstudy from Papua New Guinea”. Plos Medicine, 5:e127.
17.Goller JL et al.(2007). “Regional differences in the response of Plasmodium vivax malaria to primaquine as anti-relapse therapy”. American Journal of Tropical medicine & Hygiene, 76:203-207.
18.Gogtay NJ, Desai S, Kadam VS et al.,(2000). “Relapse pattern of Plasmodium vivax in Mumbai: a study of 283 cases of vivax malaria”. J Assoc Physicician India, 2000 Nov;48(11):1085-6.
19.Graham SM, Walsh AL, Molyneux EM, Phiri AJ, Molyneux ME.(2000). “Clinical presentation of non-typhoidal Salmonella bacteraemia in Malawian children”. Trans R Soc Trop Med Hyg. 2000;94:310-4.
20.Guthmann JP, Pittet A, Lesage A et al.,(2003).« Plasmodium vivax resistance to chloroquine in Dawei, southern Myanmar ». PMID: 15689067 [PubMed].
21.Hamel CT, Blum J, Harder F, Kocher T (2002). “Nonoperative treatment of splenic rupture in malaria tropica: review of the literature and case report”. Acta Trop. 2002;82:1-5.
22.Hill DR et al.(2006). “Primaquine: report from CDC expert meeting on malaria chemoprophylaxis” American Journal of Tropical medicine and Hygiene, 75:402-415.
23.Hovette P, Camara P, Passeron T, Tuan JF, Ba K, Barberet G, et al (2002). “Salmonella enteritidis splenic abscess complicating a Plasmodium falciparum malaria attack”. Presse Med. 2002;31:21-2.
24.Imwong M, Snounou G, Nurhayati et al.(2007). “Plasmodium vivax infection usually result from activation of heterologous hypnozoites”. Journal of Infectious Diseases, 195:927-933.
25.Jeffery GM (1956). “Relapses with Chesson strain Plasmodium vivax following treatment with chloroquine”. Am J Trop Med Hyg, 1956 Jan;5(1):1-13
26.Ketema T, Bacha K, Birhanu T (2009).“Chloroquine-resistant Plasmodium vivax malaria in Serbo town, Jimma zone, south-west Ethiopia”. Malaria journal, 2009 jul 30; 8:177
27.Kitchener S, Nasveld P, Edstein MD et al.,(2007). “Tafenoquine for the treatment of recurrent Plasmodium vivax malaria”. Am J Trop Med Hyg, 2007 Mar:76 (3):494-6
28.Krongthong Thimasarn (2003). “Malaria drug resistance. Narrative part of the Maps and Graphs on Mekong drug resistance”. Roll Back Malaria, pp. 1-4
29.Kublin JG, Cortese JF, Njunju EM, et al (2003).‘Reemergence of chloroquine-sensitive Plasmodium falciparum malaria after cessation of chloroquine use in Malawi”. JInfect Dis 87:1870-1875.
30.Kurcer MA, Simek Z, Kurcer Z et al.,(2006).“The decreasing efficacy of chloroquine in the treatment of Plasmodium vivax malaria, in Sanliurfa, south-eastern Turkey”. Ann Trop Med Parasitol, 2006 Mar;100(2):109-13
31.Laufer MK, Plowe CV (2004). “Withdrawing antimalarial drugs: impact on parasite resistance and implications for malaria treatment policies”. Drug Resist Updat;7:279-288.
32.Lee KS, Kim TH, Kim ES et al.,(2009). “Short report: chloroquine resistant Plamodium vivax malaria in the Republic of Korea”. Am J Trop Hyg, 2009 Feb; 80(2):215-7
33.Li Guoqiao et al (2005). “Artequick - A new generation of artemisinine combination”. http://www.artepharm.com/product.
34.Liang GL, Sun XD, Wang J et al.,(2009).“Sensitivity of Plasmodium vivax to chloroquine in Laza city, Myanmar”. Zhongguo Ji Sheng Chong Xue Yu Ji Sheng, 2009 Apr;27(2):175-6.
35.Liu DQ, Liu RJ, Ren DX, et al (1995).“Changes in the resistance of Plasmodium falciparum to chloroquine in Hainan, China. Bull”. World Health Organ. 1995;73:483-486.
36.Looareesuwan S, Wilairatana P, Krudsood S et al.,(1999). “Chloroquine sensitivity of Plasmodium vivax in Thailand”. Ann Trop Med Parasitol, 1999 Apr; 93(3):225-30
37.Mita T, Kaneko A, Lum JK et al (2006). “Recovery of chloroquine sensitivity and low prevalence of the Plasmodium falciparum chloroquine resistance transporter gene mutation K76T following the discontinuance of chloroquine use in Malawi”. Am J Trop Med Hyg; 68:413-415.
38.Mohapatra MK, Padhiary KN, Mishra DP et al.,(2002). “Atypical manifestations of Plasmodium vivax malaria”. Indian J Malariol, 2002 Mar-Jul;39 (1-2):18-25
39.Mulindwahz et al., (2002). “Resistance patterns of Plasmodium falciparum malaria to chloroquine in Kampala, Uganda”. East African medical journal. ISSN 0012-835X vol. 79, no3, pp. 115-119.
40.Muller I, Galinski MR, Baird JK et al.,(2009). “Key gaps in the knowledge of Plasmodium vivax, a neglected human parasite”. Lancet Infect Dis 2009 Sep; 9(9): 555-66
41.Nacher M, Silachamroon U, Singhavisanon P, Wwilairatana P et al.,(2004). “Risk factors for Plasmodium vivax gametocyte carriage in Thailand”. Am J Trop Med, 2004 Dec;71(6):693-5.
42.Nandy A, Addy M, Maji AK et al.,(2003). “Monitoring the chloroquine sensitivity of Plasmodium vivax from Calcutta and Orissa, India”. Ann Trop Parasitol, 2003 Apr; 97 (3):215-20
43.Nasveld P, Kitchner S et al.,(2005). “Treatment of acute vivax malaria with tafenoquine”. Trans R Soc Trop Med Hyg, 2005 Jan; 99(1):2-5
44.Nature (2009).http://www. vivaxmalaria.com/template_diseases
45.Norbert g. Schwarz et al., (2005).5-day nonobserved artesunate monotherapy for treating uncomplicated falciparum malaria in young Gabonese children”. The American Society of Tropical medicine and hygiene.
46.Orjuela-Sanchez P, da Silva NS, da Silva-Nune M et al.,(2009).“Recurrent parasitemias and population dynamics of Plasmodium vivax polymorphisms in rural Amazonia”. Am J Trop Med and Hyg, 2009 Dec; 81(6):961-8
47.Ozsoy MF, oncul O, Pekkafali Z, Pahsa A, Yenen OS (2004). “Splenic complications in malaria: report of two cases from Turkey”. J Med Microbiol. 2004;53:1255-8.
48.Piero L. Olliaro et al., (2004).“Antimalarial compounds: from bench to bedside”. The Journal of Experimental Biology 206, 3753-3759.
49.Price RN, Douglas NM, Anstey NM.,(2009). “New developments in Plasmodium vivax malaria: severe disease and the rise of chloroquine resistance”. Curr Opin Infect Dis, 2009 Oct; 22(5); 430-5.
50.Price RN, Tjitra E, Guerra CA et al.,(2007).“Vivax malaria: negleted and not benign”. Am J Trop Med Hyg, 2007 Dec; 77(6 suppl):79-87.
51.Ratcliff A et al. (2007). “Therapeutic response of multidrug-resistant Plasmodium falciparum and Plasmodium vivax to chloroquine and sulfadoxine-pyrimethamine in southern Papua, Indonesia”. Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene, 101:351-359.
52.Rehwagen C (2006). “WHO ultimatum on artemisinin monotherapy is showing results”. BMJ; 332: 1176.
53.Rieckmann KH, Davis DR, Hutton DC (1989). “Plasmodium vivax resistance to chloroquine?”. Lancet, 1989 Nov 18:2(8673):1183-4.
54.Rowena E. Martin et al., (2004). “The malaria parasite's chloroquine resistance transporter is a member of the drug/ metabolite transporter superfamily”. Molecular Biology and Evolution 2004 21(10):1938-49.
55.Sharrock WW, Suwannarusk R, Lek-Uthai U et al.,(2008). “Plasmodium vivax trophozoites insensitive to chloroquine”. Malarial journal 2008 May 27;7:94
56.Soto J, Toledo J, Gutierrez P et al., (2001).“Plasmodium vivax clinically resistant to chloroquine in Colombia”. Am J Trop Hyg Aug;65(2):90-3
57.Stano I, Suprijanto S, Nurhayati et al.,(2009).“Resistance to chloroquine by Plasmodium vivax at Alor in the Lessser Sundas Archipelago in eastern Indonesia”. Am J Trop Med Hyg, 2009 Aug;81(2):338-42
58.Tasar M, Ugurel MS, Kocaoglu M, Saglam M, Somuncu I. (2004). “Computed tomography guided percutaneous drainage of splenic abscesses”. Clin Imaging. 2004;28:44-8.
59.Teka H, Petros B, Yamuah L (2008).“Chloroquine-resistant Plasmodium vivax malaria in Debre Zeit, Ethiopia”. Malaria journal, 2008 Oct 29; 7-220
60.Tjitra E, Anstey NM, Sugiarto P et al.(2008).“Multidrug-resistant Plasmodium vivax associated with severe and fetal malaria: a prospective study in Papua, Indonesia”. Pls Med, 2008 Jun 17; 5(6):128.
61.Vestergaard LS, Ringwald P (2007). “Responding to the challenge of antimalarial drug resistance by routine monitoring to update national malarial treatment policies”. American Journal of Tropical medicine and Hygiene, 77 (Suppl.6):153-159.
62.Vijaykadga S, Rojanawatsivej C, Congpoung K et al.,(2004). “Assessment of therapeutic efficacy for vivax in Thailand”. Southeast Asian J Trop Med public Health, 2004 Sep; 35(3):566-9
63.Vinetz JM et al.,(2006). “Emerging chloroquine-resistant Plasmodium vivax (benign tertian) malaria: the need for alternative drug treatment”. Clin Infect Dis 2006 Apr 15;42(8):1073-4.
64.Yagmur Y, Kara IH, Aldemir M, Buyukbairam H, Tacyldiz IH, Keles C.(2000). “Spontaneous rupture of the malarial spleen: two case reports and review of the literature”. Crit Care. 2000;4:309-13.
65.Zingman BS, Viner BL (1993). “Splenic complications in malaria; case report and review”. Clin Infect Dis. 1993:16:223-32.
66.Wellems TE, Plowe CV (2001). “Chloroquine-resistant malaria”. J Infect Dis; 184:770-776.
67.Wang X, Mu J, Li G (2005).“Decreased prevalence of the Plasmodium falciparum chloroquine resistance transporter 76T marker associated with cessation of chloroquine use against P. falciparum malaria in Hainan, People's Republic of China”. Am J Trop Med Hyg;72:410-414.
68.WHO (2006). “Uncomplicated Plasmodium vivax treatment”. Guidelines for the treament of malaria. http://www.who.int/malaria/docs/ treatmentguidelines2006.pdf
69.WHO (2006). “The threat of resistance to artemisinine derivatives”. WHO briefing on malaria treatment guidelines and Artemisinine monotherapies, Geneva, 19 April, 2006. pp.13-17.
70.WHO (2007). “WHO/GMP_Standardized data entry for therapeutic efficacy tests”. Geneva, World Health Organisation (http://www.who.int/malaria/resistance).
71.WHO (2008). “Global malaria control and elimination: report of a meeting on containment of artemisinine tolerance. Geneva, WHO. http://www.who.int/malaria/resistance.
72.WHO (2009). Artemisinin resistance in Plasmodium falciparum malaria. http://www.who.int/malaria