KẾT QUẢ
 Đặc điểm của các nghiên cứu được đưa vào
 Sau quá trình tìm kiếm các nghiên cứu có liên quan, tổng cộng 1835 nghiên cứu đã được thu thập. Trong số này, 236 nghiên cứu trùng lặp đã bị loại bỏ. Tiếp theo, 1599 nghiên cứu được sàng lọc qua tiêu đề và tóm tắt, dẫn đến việc loại trừ 1273 nghiên cứu, bao gồm: 677 bài báo không liên quan đến P. malariae, 89 sách và chương sách, 24 báo cáo hội nghị, 39 bài xã luận, thư từ, bài trao đổi, 39 bài ghi chú và 444 bài tổng quan.
 Toàn văn của 326 bài báo đã được đánh giá về tính đủ điều kiện và 320 bài bị loại trừ do các lý do sau: 81 nghiên cứu không phải P. malariae thể ác tính, 72 nghiên cứu thực nghiệm, 62 nghiên cứu không phải về P. malariae, 23 bài không có toàn văn, 14 nghiên cứu côn trùng học, 13 nghiên cứu nhiễm phối hợp P. malariae với các loài Plasmodium khác, 11 nghiên cứu trên phụ nữ mang thai, 10 nghiên cứu về thuốc và thử nghiệm lâm sàng, 7 nghiên cứu trên động vật, 7 bài viết không bằng ngôn ngữ tiếng Anh, 7 báo cáo ca bệnh P. malariae thể ác tính, 6 báo cáo trường hợp P. malariae thể không ác tính, 5 báo cáo trường hợp không phải P. malariae và 2 nghiên cứu đánh giá kiến thức.
 Tổng cộng, sáu bài báo đã được đưa vào phân tích định tính và định lượng cuối cùng (Hình 1). Các đặc điểm của các nghiên cứu này được trình bày chi tiết trong Bảng 1. Trong sáu nghiên cứu được chọn, năm nghiên cứu là thiết kế cắt ngang quan sát với dữ liệu được thu thập từ bệnh viện [21],[22] hoặc hồ sơ y tế quốc gia [23],[24],[25]. Một nghiên cứu còn lại là nghiên cứu thuần tậptương lai được thực hiện tại Bỉ trong giai đoạn 2000-2005 [26].
 Trong đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp hiện tại, hai nghiên cứu được thực hiện tại Bỉ và Thụy Điển (các quốc gia châu Âu) [25],[26]; hai nghiên cứu ở Indonesia (khu vực châu Á) [21],[22]; một nghiên cứu ở Mỹ (Bắc Mỹ) [24] và một nghiên cứu ở Colombia (Nam Mỹ) [23]. Dữ liệu về nồng độ hemoglobin (g/dl), hội chứng thận hư, albumin niệu, phân bố độ tuổi và mật độ ký sinh trùng trong máu được trình bày trong tệp bổ sung 1.
   Hình 1. Sơ đồ quy trình chọn lọc  nghiên cứu
 Bảng 1. Đặc điểm của các nghiên cứu được lựa chọn
 Tỷ lệ mắc thô SRAT do P. malariae và sốt rét ác tính không phải doP. malariae
 Tổng cộng 10.520 bệnh nhân nhiễm P. malariaeđược báo cáo trong sáu nghiên cứu phân tích. Số ca nhiễm P. malariae thấp nhất là 16 bệnh nhân trong một nghiên cứu của Bottieau và cộng sự [25], trong khi số lượng ca nhiễm cao nhất là 5097 bệnh nhân trong nghiên cứu của Langford và cộng sự [22]. Trong số 10.520 bệnh nhân nhiễm P. malariae, có 360 trường hợp (3,4%) phát triển thành SRAT do P. malariae (Bảng 1). Các nghiên cứu được phân tích cũng ghi nhận các ca nhiễm P. falciparum (193.846 ca), P. vivax (189.931 ca), P. ovale (1355 ca) và nhiễm phối hợp (41.457 ca).
 Hình  Nghiên cứu đa ngành tập trung vào các loài KSTSR đã giúp lý giải cơ chế bệnh sinh và kháng thuốc do các loài, kể cả P. malariae.  Nguồn: https://www.researchgate.net/publication/359920502_Whole genome sequencing contributions and challengesin disease reduction focused on malaria/
 Tỷ lệ thô của SRAT do các loài Plasmodiumspp. khác được báo cáo như sau: 4,57% với P. falciparum (bốn nghiên cứu), 1,26% với P. vivax (năm nghiên cứu), 2,59% với P. ovale (bốn nghiên cứu) và 4,83% với nhiễm phối hợp. Số lượng các biểu hiện nghiêm trọng ở bệnh nhân nhiễm P. malariae và các loài Plasmodiumspp. khác được trình bày trong Bảng 2. Thiếu máu nặng là biến chứng nghiêm trọng phổ biến nhất ở bệnh nhân nhiễm P. malariae (349 ca; 3,32%). Biến chứng này cũng là phổ biến nhất ở các bệnh nhân nhiễm P. falciparum (3,86%), P. vivax (1,52%), P. ovale (0,66%) và nhiễm phối hợp (4,73%). Các biến chứng phổi (0,46%) và suy thận (0,24%) lần lượt là các biến chứng phổ biến thứ hai và thứ ba ở bệnh nhân nhiễm P. malariae.
 Bảng 2 Các biến chứng được ghi nhận với P. malariae và các loài Plasmodium khác
    |   Biến chứng chính (WHO, 2014)   |    Số dấu hiệu nghiêm trọng (tỷ lệ nghiêm trọng, %)   |  
  |   P. malariae (N = 10.520 ca, 6 nghiên cứu)   |    P. falciparum  (N = 193.846 ca, 5 nghiên cứu: 2, 3, 4, 5, 6)   |    P. vivax  (N = 189.931 ca, 6 nghiên cứu)   |    P. ovale  (N = 1.355 ca)   |    Nhiễm phối hợp  (N = 41.457 ca)   |  
  |   Nhiễm toan (Acidosis)   |    0   |    21 (0,01)   |    0   |    0   |    0   |  
  |   Phổi/suy hô hấp   |    48 (0,46)   |    1317 (0,68)   |    1011 (0,53)   |    7 (0,52)   |    343 (0,83)   |  
  |   Tử vong   |    18 (0,17)   |    122 (0,06)   |    10 (0,0050)   |    2 (0,15)   |    1 (0,002)   |  
  |   Sốt rét thể não   |    3 (0,03)   |    601 (0,31)   |    82 (0,04)   |    5 (0,37)   |    1 (0,002)   |  
  |   Co giật   |    0   |    9 (0,005)   |    0   |    0   |    0   |  
  |   Suy thận   |    25 (0,24)   |    1037 (0,53)   |    218 (0,11)   |    6 (0,44)   |    87 (0,21)   |  
  |   Suy nhược cơ thể   |    0   |    9 (0,005)   |    1 (0,0005)   |    0   |    0   |  
  |   Hạ huyết áp/sốc   |    1 (0,01)   |    33 (0,02)   |    8 (0,004)   |    2 (0,15)   |    3 (0,007)   |  
  |   Vàng da   |    4 (0,04)   |    165 (0,09)   |    166 (0,09)   |    6 (0,44)   |    4 (0,01)   |  
  |   Thiếu máu nặng   |    349 (3,32)   |    7473 (3,86)   |    2886 (1,52)   |    9 (0,66)   |    1961 (4,73)   |  
  |   Chảy máu/Đông máu nội mạch rải rác   |    0   |    17 (0,009)   |    5 (0,003)   |    1 (0,07)   |    1 (0,002)   |  
  |   Tăng ký sinh trùng nặng   |    0   |    57 (0,03)   |    0   |    0   |    3 (0,007)   |  
  |   Hạ đường huyết   |    0   |    2 (0,001)   |    0   |    0   |    0   |  
  |   Tổng cộng   |    448 (4,26)   |    10.842 (5,59)   |    4387 (2,31)   |    38 (2,8)   |    2404 (5,8)   |  
 
   Ước tính tổng hợp về tỷ lệ hiện mắc sốt rét P. malariae ác tính
 Số lượng BNSR ác tính doP. malariae và tổng số bệnh nhân nhiễm sốt rétP. malariae được sử dụng để ước tính tỷ lệ hiện mắc gộp của sốt rétP. malariaeác tính(tệp bổ sung 2). Kết quả ước tính tổng hợp cho thấy tỷ lệ hiện mắc sốt rétP. malariaeác tính là 3% (KTC95%: 2-5%), với mức độ không đồng nhất cao (I²: 90,67%, P< 0,001), được tính toán bằng phân tích hiệu ứng ngẫu nhiên (Hình 2). Tỷ lệ nhiễm SRAT doP. malaria cao nhất được ghi nhận trong nghiên cứu của Bottieau (19%, KTC 95%: 7-43%) [26].
 Hình 2. Ước tính tỷ lệ gộp của nhiễm P. malariae nghiêm trọng
 Ước tính tỷ lệ gộp các biến chứng của SRAT do P. malariae
 Số biến chứng nghiêm trọng ở BNSR nhiễm P. malariae và tổng số biến chứng nghiêm trọng ở bệnh nhân nhiễm tất cả các loài Plasmodium đã được sử dụng để ước tính tỷ lệ gộp các biến chứng nghiêm trọng trong nhiễm P. malariae so với các loài Plasmodium khác (tệp bổ sung 3). Tỷ lệ gộp biến chứng nghiêm trọng trong nhiễm P. malariae so với loài Plasmodium khác được trình bày trong Hình 3.
 Nhìn chung, tỷ lệ gộp các biến chứng nghiêm trọng ở bệnh nhân nhiễm P. malariae là 2% (KTC 95%: 1-3%). Tỷ lệ cao nhất của các biến chứng nghiêm trọng do nhiễm P. malariae so với các loài Plasmodiumspp. khác là thiếu máu nghiêm trọng (3%; KTC95%: 2-3%).
 Hình 3. Tỷ lệ gộp của các biến chứng nghiêm trọng trong SRAT do P. malariae
 Chú giải:Severe complications (Biến chứng nghiêm trọng); Pulmonary complication (Biến chứng phổi); Cerebral malaria (Sốt rét ác tính thể não); Renal impairment (Suy thận); Hypotension/shock (Hạ huyết áp/sốc); Jaundice (Vàng da); Severe anaemia (Thiếu máu nặng); Overall (Tổng thể); ES (95% CI) : Ước lượng điểm (khoảng tin cậy 95%).
 Tỷ lệ gộp của thiếu máu nặng trong nhiễm P. malariae và nhiễm P. falciparum
 Tỷ số chênh gộp (OR) của thiếu máu nghiêm trọng trong nhiễm P. malariae và nhiễm P. falciparum là tương đương giữa bốn nghiên cứu được đưa vào phân tích (OR:0,74; CI95%: 0,2245-2, I² = 98%) (Hình 4). Tỷ lệ thiếu máu nặng trong nhiễm P. malariae thấp hơn so với nhiễm P. falciparum trong nghiên cứu của Douglas và cộng sự (OR:0,41; CI95%:0,33-0,50) [21] và nghiên cứu của Hwang và cộng sự (OR:0,26; CI95%:0,08-0,81) [24]. Tuy nhiên, tỷ lệ thiếu máu nặng trong nhiễm P. malariae lại cao hơn so với nhiễm P. falciparum trong nghiên cứu của Langford và cộng sự (OR:2,00; CI95% 1,75-2,28) [22].
 Hình 4. Tỷ lệ tổng hợp của thiếu máu nghiêm trọng do nhiễm P. malariae và P. falciparum
 Chú giải: Study or Subgroup (Nghiên cứu hoặc phân nhóm nghiên cứu); Events ( Sự kiện/ biến cố); Total (Tổng số); Weight (Trọng số); Odds Ratio 95%CI(Tỷ số chênh lệch khoảng tin cậy 95%); IV, Random, 95% CI : Phân tích ngẫu nhiên IV, khoảng tin cậy 95%; Risk of Bias (Nguy cơ sai số); Total (95% CI) (Tổng số (khoảng tin cậy 95%); Total events (Tổng số sự kiện); Heterogeneity (Tính không đồng nhất); Test for overall effect(Kiểm định tác động tổng thể)
 (A) Random sequence generation (selection bias) : Tạo trình tự ngẫu nhiên (sai số lựa chọn);
 (B) Allocation concealment (selection bias) : Làm ẩn phân bổ (sai lệch lựa chọn);
 (C) Blinding of participants and personnel (performance bias): Làm mù người tham gia và nhân viên nghiên cứu (sai số hiệu năng);
 (D) Blinding of outcome assessment (detection bias): Làm mù đánh giá kết quả (sai số phát hiện);
 (E) Incomplete outcome data (attrition bias): Dữ liệu kết quả không đầy đủ (sai số hao hụt);
 (F) Selective reporting (reporting bias) : Báo cáo chọn lọc (sai số báo cáo);
 (G) Other bias : Các sai số khác.
 Tỷ lệ gộp các biến chứng phổi và thận do nhiễm P. malariae và P. falciparum
 Tỷ lệ tổng hợp gộp của các biến chứng phổi giữa bệnh nhân nhiễm P. malariae và P. falciparum trong bốn nghiên cứu được đưa vào là tương đương (OR:1,44; KTC95%: 0,17-12,31; I²: 92%) (Hình 5). Biến chứng phổi ở bệnh nhân nhiễm P. malariae thấp hơn so với P. falciparum trong nghiên cứu của Hwang và cộng sự (OR:0,14; KTC95%: 0,03-0,55) [24], trong khi tỷ lệ này lại cao hơn ở P. malariae so với P. falciparum trong nghiên cứu của Chaparro và cộng sự (OR:46,95; KTC95%: 10,9-202,1) [23].
 Về các biến chứng thận, biểu đồ hình phễu cho thấy tỷ lệ gộpbiến chứng thận giữa nhiễm P. malariae và P. falciparum trong bốn nghiên cứu cũng tương đương (OR:0,94; KTC95%: 0,18-4,93; I²: 91%) (Hình 6). Biến chứng thận ở bệnh nhân nhiễm P. malariae thấp hơn so với P. falciparum trong nghiên cứu của Hwang và cộng sự (OR:0,16; KTC95%: 0,08-0,35) [24], trong khi tỷ lệ này lại cao hơn ở P. malariae so với P. falciparum trong nghiên cứu của Chaparro và cộng sự (OR:16,51; KTC95%: 3,94-69,1) [23].
 Chú giải: Xem Hình 4
 Tỷ lệ biến chứng phổi do nhiễm P. malariae và P. falciparum
 Fig.
 Chú giải: Xem hình 4 - Tỷ lệ gộp các biến chứng phổi do nhiễm Plasmodium malariae và Plasmodium falciparum đã được phân tích
 Tỷ lệ tử vong do nhiễm P. malariae
 Tỷ lệ tử vong thô do nhiễm P. malariae được báo cáo là 0,17% (18 trường hợp) trong các nghiên cứu được đưa vào do Hwang và cộng sự [24] và Langford và cộng sự [22] công bố. Tỷ lệ tử vong thô của các loài Plasmodiumspp. khác được báo cáo trong các nghiên cứu gồm P. falciparum (122 trường hợp; 0,08%), P. vivax (10 trường hợp; 0,01%), P. ovale (2 trường hợp; 0,15%) và 1 trường hợp nhiễm phối hợp các loài trên (0,002%).
 Chất lượng của các nghiên cứu được đưa vào phân tích
 Cả sáu nghiên cứu được đưa vào phân tích trong nghiên cứu này đều được đánh giá theo hướng dẫn của Hệ thống đánh giá Newcastle-Ottawa (NOS). Nhìn chung, năm nghiên cứu được đánh giá là tốt với điểm tối đa là 9 sao và một nghiên cứu được đánh giá là trung bình với 8 sao do hạn chế trong tính "tínhđại diệncủa các trường hợp bệnh" (chỉ tập trung vào biến chứng thiếu máu nặng mà không đề cập đến các biến chứng khác trong mục tiêu nghiên cứu). Chi tiết đánh giá được trình bày trong Bảng 3.
 Bảng 3: Chất lượng của các nghiên cứu được đưa vào
    |   STT   |    Tham khảo   |    Lựa chọn   |    Tương thích   |    Phơi nhiễm   |  
  |   Định nghĩa trường hợp có đầy đủ không?   |    Tính đại diện của các trường hợp   |    Lựa chọn nhóm đối chứng   |    Định nghĩa nhóm đối chứng         |    Xác định phơi nhiễm   |    Phương pháp xác định phơi nhiễm giống nhau giữa các trường hợp và nhóm đối chứng   |    Tỷ lệ không phản hồi   |  
  |   1   |    Bottieau và cs.,[26]   |    *   |    *   |    *   |    *   |    **   |    *   |    *   |    *   |  
  |   2   |    Chaparro và cs., [23]   |    *   |    *   |    *   |    *   |    **   |    *   |    *   |    *   |  
  |   3   |    Douglas và cs.,[21]   |    *   |        |    *   |    *   |    **   |    *   |    *   |    *   |  
  |   4   |    Hwang và cs., [24]   |    *   |    *   |    *   |    *   |    **   |    *   |    *   |    *   |  
  |   5   |    Langford và cs., [22]   |    *   |    *   |    *   |    *   |    **   |    *   |    *   |    *   |  
  |   6   |    Wangdahl và cs., [25]   |    *   |    *   |    *   |    *   |    **   |    *   |    *   |    *   |  
 
   Sai số trong công bố
 Phân tích biểu đồ hình phễu để kiểm tra sai sốtrong công bố của sáu nghiên cứu được đưa vào không thể thực hiện, vì phương pháp phân tích này yêu cầu tối thiểu 10 nghiên cứu [27].
  Đây là nghiên cứu đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp đầu tiên ước tính tỷ lệ mắc SRAT do P. malariae. Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc SRAT do P. malariae là thấp (3%). Kết quả này phù hợp với một nghiên cứu trước đó chỉ ra rằng nhiễm SRAT do P. malariae là một biến chứng hiếm gặp, với tần suất xuất hiện thấp ở các BNSR nói chung [11]. Cơ chế gây SRAT do P. malariae hiện vẫn chưa rõ,P. malariae là một loại KSTSR phát triển chậm, lây nhiễm vào các hồng cầu trưởng thành [28]. Chu kỳ hồng cầu kéo dài 72 giờ (được gọi là sốt rét ba ngày) có thể làm giảm số lượng KSTSR non (hay thể hoa thị), từ đó thúc đẩy sự phát triển sớm của khả năng miễn dịch ở người [6]. P. malariae không gây tái phát xa sốt rét từ giai đoạn ký sinh trong gan, nhưng sự tái phát gần (recrudescence) của ký sinh trùng trong máu có thể kéo dài trong thời gian dài mà không có biểu hiện hay triệu chứng nào. Ngay cả khi được điều trị thích hợp, nhiễm P. malariae mãn tính và không biểu hiện triệu chứng vẫn có thể xảy ra do thời kỳ tiềm tàng (prepatent period) kéo dài, khi thuốc không đủ để loại bỏ các ký sinh trùng non mới xuất hiện [28],[29].
 Phần lớn bệnh nhân nhiễm P. malariae không có triệu chứng rõ ràng, do đó không được sử dụng dịch vụ y tế trong thời gian nhiễm bệnh không triệu chứng [30]. Ngay cả khi bệnh nhân nghi ngờ nhiễm P. malariae đến cơ sở y tế, ký sinh trùng P. malariae thường bị bỏ sót trong lam kính được soi dưới kính hiển vi do mật độ KSTSR thấp so với loài P. falciparum [31],[32]. Ngoài ra, việc phân biệt P. malariae với các loài Plasmodiumspp. khác bằng phương pháp kính hiển vi gặp khó khăn, dẫn đến việc đánh giá thấp tỷ lệ hiện mắc và dẫn đến chẩn đoán muộn, làm bệnh tiến triển thành các biến chứng nặng [17],[33].Hơn nữa, nhiễm P. malariae dễ bị chẩn đoán nhầm khi chỉ sử dụng kính hiển vi và thường được điều trị nhầm là nhiễm vi khuẩn [12]. Việc phát hiện P. malariae qua kính hiển vi cũng gặp khó khăn ở những bệnh nhân có đồng nhiễm với P. falciparum tại các khu vực dịch tễ sốt rét, nơi mà P. falciparum chiếm ưu thế, như ở châu Phi là nơi nhiễm P. malariae thường phối hợp với nhiễm P. falciparum [6].
 Một nguyên nhân khác có thể gây sốt rét nặng và SRAT ở bệnh nhân nhiễm P. malariae là hiện tượng kết cụm hồng cầu, tức là sự gắn kết của hai hoặc nhiều hồng cầu bị nhiễm vào một hồng cầu không nhiễm, gây cản trở lưu thông máu trong vi tuần hoàn, một cơ chế đã được ghi nhận trong nhiễm P. falciparum và cũng đã được báo cáo ở bệnh nhân nhiễm P. malariae [17].
 Bài tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp này đã chỉ ra rằng thiếu máu nghiêm trọng là biến chứng phổ biến nhất ở bệnh nhân nhiễm P. malariae, theo các nghiên cứu được đưa vào phân tích. Nghiên cứu của Douglas và cộng sự [21] cho thấy tỷ lệ thiếu máu nặng ở bệnh nhân nhiễm P. malariae thấp hơn so với những trường hợp không nhiễm P. malariae. Họ cũng chỉ ra rằng nhiễm P. malariae có liên quan đến mức hemoglobine trung bình thấp hơn so với nhiễm các loài Plasmodium khác [21].Nghiên cứu của Langford và cộng sự (2015) đã tiếp nhận 5097 bệnh nhân nhiễm P. malariae và cho thấy nồng độ hemoglobine trung bình (9 g/dL) ở những bệnh nhân này thấp hơn so với những bệnh nhân nhiễm các loài Plasmodiumspp. khác [22]. Tuy nhiên, nồng độ hemoglobinethấp hơn có liên quan đến nguy cơ tử vong cao hơn được báo cáo ở bệnh nhân nhiễm P. falciparum [21]. Nguyên nhân gây thiếu máu ở bệnh nhân sốt rét có thể do mật độ KSTSR cao của P. falciparum, dẫn đến sự giảm nhanh chóng nồng độ hemoglobine [21].
 Các nghiên cứu trước đây gợi ý rằng thiếu máu nghiêm trọng trong nhiễm P. malariae có thể xuất phát từ sự phá hủy hồng cầu kéo dài và ức chế tủy xương, với sự giảm tuổi thọ hồng cầu tối thiểu gây ra bởi mức độ ký sinh trùng thấp [21],[22],[34]. Cần lưu ý rằng hầu hết bệnh nhân nhiễm P. malariae trong các nghiên cứu được đưa vào phân tích là người Papua vùng cao, một nhóm dân tộc có nguy cơ thiếu máu nghiêm trọng cao nhất do các yếu tố dinh dưỡng và huyết học [22]. Những yếu tố này có thể góp phần làm giảm mức hemoglobine trung bình ở các bệnh nhân này, khi nguy cơ thiếu máu nghiêm trọng trong nhiễm P. malariae tương đương với nhiễm P. falciparum và P. vivax sau khi điều chỉnh yếu tố dân tộc trong mô hình phân tích đa biến [22].
 Về phân bố độ tuổi của bệnh nhân nhiễm P. malariae, nghiên cứu của Langford và cộng sự đã cho thấy phần lớn bệnh nhân nhiễm P. malariae có độ tuổi trên 15, cao hơn so với bệnh nhân nhiễm P. falciparum, P. vivaxvà nhiễm phối hợp, phản ánh mức độ lây truyền thấp ở Indonesia [22]. Số lượng bệnh nhân nhiễm P. malariae dưới 5 tuổi (10,9%), nhóm dễ bị tổn thương nhất do sốt rét là rất thấp [35]. Tổng hợp hệ thống và phân tích tổng hợp này cho thấy rằng các biến chứng về phổi và suy giảm chức năng thận thường gặp ở bệnh nhân nhiễm P. malariae. Cơ chế gây ra các biến chứng phổi ở bệnh nhân nhiễm P. malariae nặng hiện chưa được biết rõ. Tổn thương phổi trong bệnh sốt rét do P. malariae có thể do sự “ẩn cư” hay “giam giữ” hồng cầu nhiễm KSTtrong vi mạch, tương tự như trong nhiễm P. falciparum, làm tăng tính thấm của mạch máu, dẫn đến hiện tượng tích tụ dịch và tiến triển thành phù phổi [36]. Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu để xác định liệu các hồng cầu nhiễm ký sinh trùng P. malariae có bám dính vào các tế bào nội mô của con người hay không.
 Suy giảm chức năng thận và hội chứng thận hư thường gặp ở bệnh nhân nhiễm P. malariae, với sự hiện diện của phức hợp miễn dịch IgM và IgG tại màng đáy cầu thận [37]. Nhiễm P. malariae từ lâu đã được công nhận là nguyên nhân gây hội chứng thận hư ở những bệnh nhân không được điều trị [29],[38],[39],[40]. Ngoài ra, hiện tượng albumin niệu cũng thường thấy ở những bệnh nhân được điều trị P. malariae để chữa giang mai thần kinh vào những năm 1930 [41]. Tuy nhiên, nghiên cứu của Langford và cộng sự cho thấy tỷ lệ mắc hội chứng thận hư rất thấp (0,1%) trong số 5097 bệnh nhân nhiễm P. malariae tham gia nghiên cứu [22]. Mặc dù tỷ lệ mắc hội chứng thận hư thấp hơn trong các ca nhiễm P. malariae, tỷ lệ này vẫn cao hơn so với các ca nhiễm các loài Plasmodiumspp. khác [22]. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng hội chứng thận hư do P. malariae có thể dẫn đến suy thận tiến triển, đặc biệt ở người trưởng thành trẻ tuổi [42],[43]. Trường hợp suy thận cấp do P. malariae sau điều trị bằng quinine đã được báo cáo trước đây. Trong trường hợp này, việc điều trị bằng quinine tiêm tĩnh mạch và thực hiện bốn lần lọc máu đã cải thiện chức năng thận của bệnh nhân [12]. Một trường hợp bất thường khác là nhiễm P. malariae qua truyền máu ở một bệnh nhân bị thalassemia thể nặng không được chẩn đoán trong nhiều tháng, dẫn đến suy thận cấp [15].
 Sốt rét nặng do nhiễm P. malariae hiếm gặp và thường liên quan đến các gen dễ cảm thụ khác nhau: các gen liên quan đến phản ứng viêm như yếu tố hoại tử khối u (TNF), interleukin-6 (IL-6) và IL-10, yếu tố ức chế di chuyển đại thực bào (MIF), enzyme chuyển đổi angiotensin (ACE) và catalase; các gen liên quan đến yếu tố đông máu như chất ức chế plasminogen activator (PAI)-1, fibrinogen, các yếu tố đông máu II, V, VII, và XIII; cùng các gen liên quan đến miễn dịch bẩm sinh như thụ thể giống toll (TLR)-2, TLR-4, TLR-5, lectin liên kết mannose (MBL), kinase 1 liên kết thụ thể interleukin-1 (IRAK-1), phân tử kết cụm biệt hóa-14 (CD-14), protein liên kết thụ thể interleukin-1 giống toll (TIRAP) và chất ức chế Nf-κB (IκB) [13]. Ngoài ra, một nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng năm gen quan trọng, bao gồm IRAK-1 rs1059703, CD-14 rs2569190, TNF-beta rs909253, IL-6 rs1800795 và MIF rs755622 có liên quan đến mức độ nghiêm trọng gia tăng của hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan trong một trường hợp nhiễm P. malariae [44].
 Bài tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp hiện tại có một số hạn chế. Thứ nhất, số lượng nghiên cứu được đưa vào còn hạn chế, điều này có thể ảnh hưởng đến ước tính tổng hợp về tỷ lệ hiện mắc SRAT do P. vivax trên toàn cầu. Thứ hai, mặc dù SRAT do nhiễm P. malariae có liên quan đến gánh nặng cao của thiếu máu nặng, nhưng phân tích định lượng về nồng độ haemoglobine trong nhiễm P. malariae không thể thực hiện được vì chỉ có nghiên cứu của Douglas và cộng sự [21] báo cáo dữ liệu định lượng này. Thứ ba, hội chứng thận hư và albumin niệu không thể phân tích do chỉ có nghiên cứu của Langford và cộng sự [22] báo cáo số trường hợp nhiễm P. malariae liên quan đến hội chứng thận hư. Thứ tư, phân bố độ tuổi của bệnh nhân nhiễm P. malariae không thể phân tích vì chỉ có nghiên cứu của Langford và cộng sự báo cáo phân bố độ tuổi của nhóm bệnh nhân này. Thứ năm, mật độ KSTSR liên quan đến SRAT do nhiễm P. malariae không thể phân tích vì chỉ có nghiên cứu của Bottieau và cộng sự [26] báo cáo dữ liệu về mật độ ký sinh trùng. Dựa trên tất cả kết quả, mặc dù nghiên cứu này ghi nhận tỷ lệ hiện mắc SRAT do P. malariae thấp, những bệnh nhân nhiễm P. malariae cần được kiểm tra tình trạng thiếu máu và nếu phát hiện thiếu máu, cần điều trị tích cực để ngăn ngừa tử vong liên quan đến thiếu máu.
  Bài tổng hợp hệ thống này đã chỉ ra tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong thấp của SRAT ở bệnh nhân nhiễm P. malariae. Thiếu máu nghiêm trọng, các biến chứng về phổi và suy thận là những biến chứng thường gặp ở bệnh nhân nhiễm P. malariae. Mặc dù tỷ lệ mắc và tử vong do nhiễm P. malariae thấp, cần tiến hành đánh giá bệnh nhân nhiễm P. malariae về tình trạng thiếu máu nghiêm trọng và nếu có, phải điều trị tích cực để ngăn ngừa tử vong liên quan đến thiếu máu.
  PRISMA: Preferred Reporting Items for Systematic Reviews and Meta-Analyses (Hướng dẫn các hạng mục báo cáo ưu tiên cho tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp);
 RDT: Rapid diagnostic test(Xét nghiệm chẩn đoán nhanh);
 PCR: Polymerase chain reaction(Phản ứng chuỗi trùng hợp);
 NOS:Newcastle–Ottawa Scale(Thang đo Newcastle-Ottawa);
 TNF:Tumour necrosis factor(Yếu tố hoại tử khối u)
 IL:Interleukin
 MIF:Macrophage migration inhibitory factor(Yếu tố ức chế di chuyển đại thực bào);
 ACE:Angiotensin-converting enzyme (Enzyme chuyển đổi angiotensin);
 PAI:Plasminogen activator inhibitor(Chất ức chế hoạt hóa plasminogen); 
 TLR:Toll-like receptor(Thụ thể giống Toll);
 MBL:Mannose-binding lectin(Lectin gắn mannose);
 IRAK-1:Interleukin 1 receptor associated kinase 1(Kinase 1 liên kết thụ thể interleukin 1)
 CD:Cluster of differentiation(Cụm biệt hóa);
 TIRAP:Toll interleukin-1 receptor-associated protein (Protein liên kết Toll interleukin-1);
 IκB:Nf-κB inhibitor (Chất ức chế Nf-κB)
 CN. Nguyễn Thái Hoàng & TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn