TÓM TẮT
 Đặt vấn đề: Các biến chứng nghiêm trọng ở bệnh nhân nhiễm Plasmodium malariae (P. malariae) là rất hiếm. Đây là nghiên cứu đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp đầu tiên cho thấy tỷ lệ mắc và tử vong toàn cầu do sốt rét ác tính P. malariae ở người.
 Phương pháp: Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp được thực hiện theo các hướng dẫn PRISMA (Preferred Reporting Items for Systematic Reviews and Meta-Analyses). Tất cả các bài báo nghiên cứu liên quan đến mức độ nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân sốt rét (BNSR) do P. malariae ở người được thu thập từ ba cơ sở dữ liệu công cộng: PubMed, Scopus và ISI Web of Science. Ước tính tỷ lệ hiện mắc gộp với khoảng tin cậy CI95% của các biến chứng ở bệnh nhân sốt rét do P. malariae được phân tích qua mô hình tác động ngẫu nhiên trong phần mềm STATA. Tỷ số chênh gộp và khoảng tin cậy CI95% về mức độ nghiêm trọng của sốt rét do P. malariae so với P. falciparum được phân tích bằng phần mềm Review Manager.
 Kết quả: Sáu nghiên cứu đã được sử dụng để ước tính tỷ lệ hiện mắc gộp của SRAT do P. malariae. Trong tổng số 10520 bệnh nhân nhiễm P. malariae, ước tính tỷ lệ hiện mắc gộp của SRAT do P. malariae là 3% (CI95%: 2-5%), với tính không đồng nhất cao (I²: 90,7%). Thiếu máu nặng (3,32%), biến chứng phổi (0,46%) và suy thận (0,24%) là các biến chứng nghiêm trọng phổ biến nhất ở bệnh nhân nhiễm P. malariae. Tỷ lệ thiếu máu nghiêm trọng gộp giữa nhiễm P. malariae và P. falciparum là tương đương trong bốn nghiên cứu được đưa vào (OR:0,74; CI95%: 0,22-2,45, I²: 98%). Tương tự, tỷ lệ biến chứng phổi gộp ở bệnh nhân nhiễm P. malariae và P. falciparum cũng tương đương (OR:1,44; CI 95%:0,17-12,31, I²: 92%). Đối với biến chứng thận, đồ thị phễu cho thấy tỷ lệ gộp của các biến chứng thận giữa nhiễm P. malariae và P. falciparum là tương đương trong bốn nghiên cứu (OR:0,94; CI95%:0,18-4,93, I²: 91%). Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân nhiễm P. malariae là 0,17% (18/10.502 trường hợp).
 Kết luận: Bài tổng quan hệ thống đã chỉ ra khoảng 2% bệnh nhân nhiễm P. malariae phát triển các biến chứng nghiêm trọng, với tỷ lệ tử vong thấp. Thiếu máu nặng, tổn thương phổi và suy thận là các biến chứng phổ biến nhất được ghi nhận ở BNSR do P. malariae. Mặc dù tỷ lệ mắc và tử vong do nhiễm P. malariae được báo cáo là thấp, cần thăm khám kỹ lưỡng để phát hiện thiếu máu nặng ở bệnh nhân nhiễm P. malariae và điều trị tích cực nếu có, nhằm ngăn ngừa tử vong liên quan đến thiếu máu.
 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NỀN TẢNG
 Sốt rét là một vấn đề y tế công cộng, với ước tính 219 triệu ca mắc ở 87 quốc gia và 435.000 ca tử vong liên quan đến sốt rét vào năm 2017 [1]. Khu vực có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là vùng châu Phi của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) [1]. Có năm loài Plasmodiumspp. chính có thể gây nhiễm ở người, gồm P. falciparum, P. vivax, P. malariae, P. ovale và P. knowlesi [2]. Quá trình lây truyền bệnh sốt rét ở người chủ yếu diễn ra qua vết đốt máu của muỗi cái Anopheles [2]. Ngoài ra, truyền máu và lan truyền từ mẹ sang con (trong khi mang thai và lúc sinh) cũng được ghi nhận là các con đường lây nhiễm sốt rét khác, tuy nhiên chúng xảy ra ít phổ biến hơn [3].
 Hầu hết các trường hợp sốt rét ở người là do hai loài P. falciparum và P. vivax gây ra [4]. Hai loài này xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, với phân bố P. falciparum cao hơn P. vivax tại châu Phi, trong khi P. vivax phổ biến hơn P. falciparum ở Nam Mỹ [5]. Nhiễm P. ovale chủ yếu phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới châu Phi, trong khi nhiễm P. knowlesi chỉ xảy ra ở một số khu vực rừng rậm tại các quốc gia Đông Nam Á [5]. P. malariae thường đồng lưu hành với P. falciparum tại khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi, Nam Mỹ, Indonesia, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương [6]. Một nghiên cứu trước đây cho thấy 7,4% trường hợp nhiễm P. malariae là nhiễm phối hợp với P. falciparum [7] nhưng hiện nay số ca tại Khánh Hòa, Việt Nam phần lớn nhiễm đơn thuần P. malariae.
 Sốt rét ác tính là khi một bệnh nhân sốt rét có bất kỳ biến chứng nào của nhiễm các loài Plasmodiumspp. tiến triển nhanh và có thể dẫn đến tử vong trong vòng vài giờ hoặc vài ngày [8] và những biến chứng này đã được TCYTTG liệt kê [9]. Hầu hết các ca tử vong liên quan đến SRAT đều do P. falciparum gây ra, mặc dù P. vivax, P. konwlesi hoặc P. ovale cũng có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng dẫn đến tử vong nhưng với tần suất thấp hơn P. falciparum [10]. SRAT là một biến chứng hiếm gặp ở bệnh nhân nhiễm P. malariae [11], gồm suy thận cấp [12],[13],[14],[15], SRAT thể não [16] và tình trạng liệt cơ hoặc co giật nhiều lần [17]. Đây là nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp đầu tiên nhằm làm rõ tỷ lệ mắc SRAT do P. malariaedựa trên các bài báo được xuất bản trong ba cơ sở dữ liệu nghiên cứu.
 
Hình 1. Đánh giá sự lưu hành các mẫu nhiễm P. malariae của các nước trên thế giới
 Nguồn: https://www.nature.com/articles/nature21038
 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Tổng hợp tài liệu y văn
 Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp được thực hiện theo hướng dẫn của PRISMA (Preferred Reporting Items for Systematic Reviews and Meta-Analyses) [18]. Tất cả bài báo nghiên cứu về tỷ lệ mắc sốt rétác tính do P. malariae ở người đã được thu thập từ ba cơ sở dữ liệu công khai: PubMed, Scopus và ISI Web of Science. Các bài báo được tìm kiếm đến năm 2019 và các thuật ngữ tìm kiếm gồm (severe OR complicated OR Complication) AND (“Plasmodium malariae” OR malariae)” sử dụng các toán tử Boolean “OR” hoặc “AND”. Phần mềm EndNote phiên bản X7 (Thomson Reuters, New York, NY) được sử dụng để quản lý tất cả tài liệu tham khảo trong nghiên cứu này.
 
Hình 2. Chu kỳ sinh học và phát triển của các loài không phải P. falciparum.
 Bổ sung dữ liệu thêm vào cho giải trình tự bộ gen các loài. Nguồn: BioRender.com. Tiêu chí lựa chọn: Tiêu chí lựa chọn bao gồm là bất kỳ nghiên cứu nào báo cáo về SRAT do nhiễm P. malariae và bất kỳ nghiên cứu gốc nào được công bố bằng tiếng Anh. Chỉ các bài báo báo cáo về nhiễm đơn P. malariae ác tính mới được đưa vào. Những nghiên cứu này được sử dụng để phân tích tỷ lệ mắc gộp của SRAT do P. malariae. Chẩn đoán sốt rét dựa trên một trong các phương pháp sau: soi kính hiển vi, xét nghiệm chẩn đoán nhanh (RDT) và phản ứng chuỗi trùng hợp (PCR).
 Tiêu chí loại trừ: Những nghiên cứu báo cáo nhiễm P. malariae nhưng không liên quan đến các chủ đề hoặc biến chứng, nghiên cứu trên động vật, nghiên cứu về thuốc, báo cáo ca bệnh và chuỗi ca bệnh, bài xã luận, thư gửi biên tập, kỷ yếu hội nghị, thông tin ngắn, nghiên cứu thực nghiệm, sốt rét trong thai kỳ, đồng nhiễm P. malariae với các loài Plasmodiumspp. khác hoặc các bệnh khác và các bài tổng quan. Các nghiên cứu cũng bị loại nếu báo cáo dữ liệu không đầy đủ về SRAT do P. malariae.
 Lựa chọn và trích xuất dữ liệu
 Hai người đánh giá tổng hợp (MK và KUK) đã độc lập lựa chọn các bài báo. Bất kỳ sự bất đồng nào giữa hai người đánh giá về việc lựa chọn bài báo đều được giải quyết thông qua thảo luận hoặc yêu cầu ý kiến từ người đánh giá thứ ba (GDM). Bộ dữ liệu của bài tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp này gồm tên tác giả, năm xuất bản, giai đoạn nghiên cứu, phân bố độ tuổi, nồng độ haemoglobine, mật độ ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) trong máu, hội chứng thận hư, albumin niệu, số lượng các ca sốt rét của từng loài, tỷ lệ tử vong và số lượng các ca nặng của tất cả loài Plasmodiumspp., đã được trích xuất và nhập vào bảng tính Microsoft Excel (Microsoft Corporation, Mỹ) để phân tích tiếp theo.
 Tiêu chí đánh giá sốt rét ác tính
 Tiêu chí đánh giá SRAT do P. malariae dựa trên định nghĩa của TCYTTGtrong các nghiên cứu được liệt kê [8].
 Đánh giá chất lượng các nghiên cứu được đưa vào
 Việc đánh giá chất lượng được thực hiện theo công cụ đánh giá chất lượng theo thang điểm Newcastle-Ottawa (NOS) phát triển, nhằm đánh giá chất lượng của các nghiên cứu không ngẫu nhiên trong các phân tích tổng hợp [19]. Công cụ đánh giá chất lượng này được sử dụng để xác định độ tin cậy của các nghiên cứu được đưa vào, như được trình bày trong Bảng 3.
 Phân tích thống kê và phân tích tổng hợp
 Các biến định tính, bao gồm số lượng BNSR có dấu hiệu nặng, số ca tử vong và số bệnh nhân nhiễm Plasmodium spp., được phân tích bằng tần suất và tỷ lệ phần trăm. Dữ liệu từ bảng tính Microsoft Excel được chuyển sang Stata phiên bản 14 (StataCorp, Mỹ) để tính tỷ lệ gộp và khoảng tin cậy 95% của các biến chứng ở bệnh nhân SRAT do P. malariae. Tỷ lệ gộp của SRAT do nhiễm P. malariae được tính dựa trên số bệnh nhân mắc SRAT và tổng số bệnh nhân sốt rét do P. malariae. Tỷ lệ gộp của các biến chứng nặng do nhiễm P. malariae được tính dựa trên số biến chứng nặng ở bệnh nhân nhiễm P. malariae so với tổng số biến chứng nặng ở tất cả bệnh nhân nhiễm Plasmodium spp. được báo cáo trong các nghiên cứu được đưa vào phân tích này. Việc ước tính tỷ lệ gộp được thực hiện theo hướng dẫn từ một nghiên cứu trước đây [20]. Lệnh trong Stata sử dụng là “metaprop case population, random”. Ngoài ra, tỷ số chênh gộp và khoảng tin cậy 95% cũng được tính để trình bày sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm P. malariaegâ SRAT so với các loàiKSTSR khác không doP.malariae và được thực hiện bằng phần mềm Review Manager (RevMan) (Cochrane Collaboration, Anh). Mức không đồng nhất giữa các nghiên cứu được đánh giá bằng phép kiểm định Q của Cochran và chỉ số I² của Moran (không nhất quán), trong đó giá trị I² trên 50% được coi là biểu hiện của sự không đồng nhất đáng kể.
 Sai số trong các ấn phẩm công bố
 Phân tích biểu đồ hình phễu được sử dụng để đánh giá tính đối xứng trong các biểu đồ hình phễu của bệnh nhân nhiễm P. malariae và xác định xem sai lệch công bố có phải là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến sự không đồng nhất dữ liệu trong các nghiên cứu được đưa vào phân tích hay không.
 (Còn nữa --> Tiếp theo Phần 2: Kết quả và Bàn luận)