Trong tai nạn thương tích xảy ra hàng ngày, tổn thương phần mềm thường hay xuất hiện sau khi tiếp xúc, bị tác động va đập mạnh trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra tại vùng bị tổn thương. Mặc dù không nguy hiểm đến tính mạng nhưng nếu bị va đập mạnh gây rách da, chảy máu nhiều ở bên ngoài hay chảy máu ở bên trong nội tạng không thấy được; nạn nhân có thể bị choáng gây nguy hiểm. Vì vậy cần xử lý tổn thương phần mềm một cách phù hợp để phòng tránh những biến chứng và hậu quả không mong muốn.
Đặc điểm của tổn thương phần mềm
Tổn thương phần mềm là loại tổn thương ở phần da, cơ, dây chằng, các cơ quan khác do sự va đập làm rách da, chảy máu. Tổn thương thường xuất hiện sau khi tiếp xúc, bị tác động bởi lực va đập mạnh trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra tại vùng bị tổn thương như ngã trượt, đánh nhau, va chạm xe... Nếu tổn thương phần mền bị rách da, đứt mạch máu gây chảy máu có thể làm cho nạn nhân ở tình trạng nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Có hai loại tổn thương phần mềm là tổn thương phần mềm nông và tổn thương phần mềm rộng, sâu.
Tổn thương phần mềm nông biểu hiện bằng một hay nhiều vết rách da, cơ, phần mềm ở tay, chân, ngực, bụng, lưng... Vết thương có thể còn đang chảy máu nếu tai nạn vừa mới xảy ra hoặc vết thương đã được cầm máu biểu hiện bằng vảy máu đóng bánh ở bên ngoài vết thương. Nạn nhân có tình trạng tỉnh táo, chân tay ấm, vận động và cảm giác phần chi ở bên dưới vết thương hoàn toàn bình thường.
Tổn thương phần mềm rộng, sâu thường gặp trong các tai nạn do bị ngã hoặc do cố tình gây thương tích. Da, cơ và phần mềm bị tổn thương trên diện rộng, chảy máu nhiều; đặc biệt có thể kèm theo thương tổn mạch máu, thần kinh cũng như gân, cơ, xương, khớp... Nạn nhân có biểu hiện tay hoặc chân bị tổn thương lạnh, mất vận động và cảm giác.
Nguyên nhân gây tổn thương phần mềm thường gặp là do những tác động từ bên ngoài như va đập mạnh làm dập nát, rách da; vật sắc nhọn làm rách da; bị ngã, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, chơi thể thao, tai nạn trong sinh hoạt, xung đột hoặc bom mìn...
Phân loại tổn thương phần mềm
Tổn thương phần mềm bao gồm chấn thương phần mềm và vết thương phần mềm chảy máu.
- Chấn thương phần mềm là những tổn thương đụng dập phần mềm, giãn dây chằng nhưng không bị rách da. Các dấu hiệu để nhận biết là không rách da, đau; sưng, bầm tím hoặc đỏ; hạn chế vận động. Nguyên tắc xử trí ban đầu là chườm lạnh tại vị trí bị tổn thương càng sớm càng tốt, băng cố định bằng băng thun; hạn chế vận động, cử động vùng bị tổn thương; kê cao vùng bị tổn thương; không xoa nắn, bóp chỗ tổn thương.
- Vết thương phần mềm chảy máu do vết đứt, vết cắt làm thủng, rách da và cơ; làm tổn thương đến mạch máu gây chảy máu. Khi bị mất máu quá nhiều khoảng 1/3 thể tích máu của cơ thể sẽ dẫn đến tình trạng choáng, nếu không được can thiệp, xử trí kịp thời, nạn nhân có thể bị tử vong.
Vết thương phần mềm chảy máu gồm chảy máu ngoài và chảy máu trong. Chảy máu ngoài là máu chảy từ vết thương ra ngoài da và dễ dàng nhận biết. Tùy theo vị trí mạch máu bị đứt, rách mà mức độ chảy máu khác nhau. Nếu bị đứt mạch máu như động mạch, tĩnh mạch lớn thì máu thường chảy nhiều, bị mất máu nhanh, tình hình diễn biến phức tạp và có thể nguy hiểm đến tính mạng nếu không được cầm máu kịp thời. Chảy máu trong là máu chảy ra khỏi mạch máu từ chỗ mạch máu bị rách, đứt nhưng không thoát ra ngoài da mà khu trú, tích đọng lại tại các khoang rỗng trong cơ thể như ổ bụng, lồng ngực, khoang nền sọ... và không thể nhìn thấy được. Chảy máu trong thường xảy ra do bị va đập mạnh vào cơ thể; đôi khi xương bị gãy có thể đâm vào các cơ quan bên trong hoặc các chấn thương khác gây chảy máu trong. Chảy máu trong rất khó xác định và đánh giá, có thể đe dọa đến tính mạng của nạn nhân nên cần được sự hỗ trợ của y tế kịp thời.
Các dấu hiệu để nhận biết chảy máu ngoài thường căn cứ vào rách da, chảy máu; đau, sưng nề, bầm tím tại vùng bị tổn thương; có thể có dị vật tại vết thương... Các dấu hiệu để nhận biết chảy máu trong thường căn cứ vào thể trạng mệt mỏi, xanh xao, các dấu hiệu của choáng; bụng cứng, sưng hoặc phồng lên; có phản ứng thành bụng hoặc bụng chướng, căng; có thể bị đau bụng dữ dội hoặc đau vùng tương ứng; nôn ra máu; da tái, lạnh, mạch yếu, nhanh; có thể có các vùng thâm tím, tụ máu; nạn nhân khát nước, môi khô, tinh thần hoảng loạn, bồn chồn, lú lẫn hoặc hôn mê; có thể thấy máu rỉ ra từ các hốc tự nhiên của cơ thể như miệng, mũi, tai...
Nguyên tắc xử trí vết thương phần mềm chảy máu
Đối với các trường hợp chảy máu ngoài, cần đi găng tay khi xử trí, trách tiếp xúc trực tiếp với máu của nạn nhân. Nếu không có găng tay, cần dùng vải, gạc, quần áo sạch hoặc túi nylon để cách ly, tránh tiếp xúc trực tiếp khi sơ cứu. Nên làm sạch vết thương nếu quá bẩn. Phải cầm máu tại chỗ càng nhanh càng tốt để hạn chế lượng máu của nạn nhân bị mất. Cần theo dõi nạn nhân và chuyển ngay đến cơ sở y tế sau khi cầm máu.
Đối với các trường hợp chảy máu trong, cần xác định nguyên nhân, hoàn cảnh bị thương tích nghi ngờ gây chảy máu trong. Phát hiện các dấu hiệu bất thường toàn thân của nạn nhân. Chống sốc cho nạn nhân và tìm mọi cách chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế càng nhanh càng tốt.
Việc băng bó vết thương phần mềm chảy máu ngoài với mục đích bảo vệ và giữ sạch vết thương, tránh ô nhiễm từ bên ngoài, tránh cọ xát, va chạm, hạn chế mọi sự đau đớn cho nạn nhân; đồng thời phải cầm máu ngay vết thương. Nguyên tắc là dùng băng để băng kín và không bỏ sót vết thương, băng phải đủ chặt, không làm ô nhiễm vết thương do những sai sót kỹ thuật và nên băng càng sớm càng tốt. Cần lưu ý đặt nạn nhân ở tư thế thoải mái và thuận tiện cho việc băng bó vết thương. Nên thao tác kỹ thuật sơ cứu ở phía trước hoặc phía bên của nạn nhân. Không được bôi thuốc, cồn trực tiếp vào vết thương hở đang chảy máu. Trước khi băng nên phủ một lớp gạc vô trùng hay gạc sạch và các nút buộc cố định băng không đè lên vết thương. Sau khi băng phải kiểm tra sự lưu thông của máu khoảng 10 phút một lần để bảo đảm máu có thể nuôi dưỡng phần cơ thể bị tổn thương ở dưới băng.
Nếu các tổn thương phần mềm không được xử trí kịp thời và đúng kỹ thuật sẽ có nguy cơ làm cho nạn nhân bị đau, sưng nề, hạn chế vận động, gây khó khăn trong sinh hoạt, dẫn đến hậu quả cứng khớp nếu kéo dài. Vết thương chảy máu nhiều nếu không được sơ cứu kịp thời có thể làm cho nạn nhân bị choáng và tử vong. Ngoài ra, nạn nhân cũng có thể bị nhiễm khuẩn tại chỗ vết thương và toàn thân.