1. hoanganh-b0ysh0ck_b0yvjp_b0ylanhlung@yahoo.com
Hỏi: Xin thầy cô cho em hỏi: hồng cầu người, hồng cầu chim, hồng cầu gà, hồng cầu vịt, hồng cầu heo giống và khác nhau như thế nào? Em xin chân thành cảm ơn !
Trả lời:
Phải nói rằng câu hỏi của bạn thật thú vị đối với tất cả mọi người cũng như cá nhân chúng tôi. Xin cảm ơn bạn rất nhiều về câu hỏi và đã tạo cho chúng tôi cơ hội không những tìm hiểu về hồng cầu người mà còn xâm nhập đến các khía cạnh khác và giống nhau của hồng cầu gà, chim, vịt, lợn,...nữa chứ. Trước hết, xin chia sẻ với bạn về đặc điểm của hồng cầu người trước đi tìm thế giới các loại hồng cầu của gia súc gia cầm khác. Thứ nhất ở người trong trường hợp bệnh lý đôi khi cũng có hồng cầu có nhân. Ở trường hợp bình thường hồng cầu lưới reticulocyte (tế bào hồng cầu mới sinh) cũng có nhân. Ngược lại, hồng cầu gà không thấy có nhân. Nếu khi xem máu gà và hồng cầu có nhân có khả năng là bệnh lý hoặc là hồng cầu phôi gà (mặc dù ở phôi gà vẫn thấy hồng cầu không có nhân).
Theo hướng tiến hóa thích nghi ngày càng hiệu quả hơn. Tại sao hồng cầu người tiêu giảm nhân thì chắc bạn cũng hiểu rồi, do người tiến hóa hơn lớp chim, khi phân tích theo quá trình tiến hoá, kích thước hồng cầu giảm dần (số lượng tăng dần), nhân tiêu biến và có cấu trúc hình cầu chuyển sang hình đĩa. Đó là những thông tin mà chúng tôi muốn gởi đến bạn sự khác và giống nhau giữa hồng cầu người và hồng cầu gà. Tương tự như vậy, bạn có thể download các đặc điểm của hồng cầu của các loại gia súc, gia cầm và động vật khác so sánh với người trên trang website có cả tiếng Việt và tiếng Anh.
Thân chúc bạn khỏe.
2. huyền- ngochuyen_rhm@yahoo.com.vn
Hỏi: Tại sao các ổ áp xe nhỏ do amíp có hình ảnh đặc hiệu là hình cổ chai hoặc hình nấm tán? Tại sao giun đũa phân bố rộng hơn giun móc/mỏ? Triệu chứng của tưa lưỡi, viêm âm đạo do nấm Candida spp.?
Trả lời: Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau:
- Các ổ abces gan do amip (Entamoeba histolytica) tại sao lại có hình ảnh đặc trưng là hình cổ chai hay hình nấm tán. Tất cả hình ảnh tổn thương gan do amip phần lớn có hình ảnh như thế hoặc hình ảnh phân ra làm 2 lớp có dịch và các chất mụn nát do hoại tử trong cùng một tổn thương, hình ảnh thương tổn abces thường có bờ rất rõ và xu hướng tròn hoặc elip. Áp xe gan a mip ở giai đoạn viêm và hoại tử thể hiện thành một khối đặc tăng âm hoặc giảm âm, sang giai đoạn áp xe đã có mủ sẽ thấy một hình hốc rỗng âm, ở giữa có một số tăng âm đậm rải rác (do những mảnh mô hoại tử tạo ra) hoặc 2-3 ổ áp xe rời nhau ở cùng một phân thuỳ hoặc ở nhiều phân thuỳ khác nhau.Kích thước ổ áp xe gan do a mip tương đối lớn thường từ 5 -10cm. Qua thực tiễn lâm sàng cà cận lâm sàng, đặc biệt tiên phong trong chẩn đoán hình ảnh, nhất là siêu âm đã cho thấy các hình ảnh tương đối điển hình như vậy và tùy thuộc từng tác giả họ tổng kết / đúc kết và đưa ra các hình ảnh có tên gọi như vậy để phân biệt với một số hình ảnh khác trong ung thư gan (hình ảnh khối tăng âm, chắc đặc hoặc một số tác giả gọi là sùi súp lơ), nang gan do sán chó (hốc rỗng gần giống u mạch thể hang) hoặc tổn thương gan do sán lá gan lớn (khối giảm âm, hỗn hợp âm trong trường hợp có hoại tử, hoặc tăng âm đi kèm giảm âm trong giai đoạn hồi phục, hoặc giảm âm kèm trống âm có dịch mủ hoặc dịch viêm đi kèm,...).
Cũng xin lưu ý với bạn rằng, không phải lúc nào cũng cho chúng ta một hình ảnh điển hình như bạn biết, vì quá trình điều trị trước đó, hoặc dùng thuốc không đúng trong một thời gian dài, bệnh nền đi kèm, cơ địa và sức đề kháng của cơ thể,...có thể cho các hình ảnh khác nhau. Khi đó, chúng ta cần gián biệt với một số hình ảnh của tổn thương gan do các tác nhân gây bệnh khác (đề cập đến ở trên) vì trong số hơn 15.000 trường hợp đến khám và điều trị bệnh sán lá gan lớn ở Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, chúng tôi đã không ít lần nhầm lẫn abces gan do amip và abces gan do sán lá gan và do vi khuẩn,...Những ca như thế, bạn nên chỉ định thêm các phản ứng huyết thanh như phản ứng miễn dịch huỳnh quang với a mip: các chất nhuộm huỳnh quang Flourescein, Isothioxynat đã ra đời kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang và được Coobs thực hiện lần đầu tiên năm 1941, phản ứng ngưng kết hồng cầu, phản ứng kết hợp bổ thể, phản ứng Elisa (Enzyme-linked-sorbent-assay).Trong đó phản ứng huỳnh quang với Amip và phản ứng ELISA có với một men thích hợp là hai phản ứng rất có giá trị để chẩn đoán áp xe gan Amip với độ nhạy và tính đặc hiệu cao, phản ứng được coi là dương tính khi hiệu giá ngưng kết > l/160 đối với phản ứng miễn dịch huỳnh quang và > l/200 đối với phản ứng ELISA và kết hợp thêm các triệu chứng lâm sàng:
+ Thể điển hình:
Áp xe gan thế điển hình là thể hay gặp nhất chiếm khoảng 60-70% trường hợp, có 3 triệu chứng chủ yếu hợp thành tam chứng Fontam (sốt, đau hạ sườn phải, gan to).
-Sốt : có thể 39 - 400C, có thể sốt nhẹ 37.5 - 380C. Thường sốt 3 - 4 ngày trước khi đau hạ sườn phải và gan to nhưng cũng có thể xảy ra đồng thời với 2 triệu chứng đó;
-Đau hạ sườn phải và vùng gan : đau mức độ cảm giác tức nặng nhoi nhói từng lúc, đau mức độ nặng, đau khó chịu không dám cử động mạnh. Đau hạ sườn phải xuyên lên vai phải, khi ho đau tăng.Đau triền miên kéo dài suốt ngày đêm;
-Gan to và đau : gan to không nhiều 3-4 cm dưới sườn phải mềm, nhẵn, bờ tù, ấn đau. Làm nghiệm pháp rung gan (+), dấu hiệu Iouddlow (+). Ngoài tam chứng Fontan là chủ yếu có thể gặp một số triệu chứng khác ít gặp hơn
-Rối loạn tiêu hoá : ỉa lỏng hoặc ỉa nhày máu giống lỵ, xảy ra đồng thời với sốt trước hoặc sau sốt vài ba ngày;
-Mệt mỏi, gầy sút nhanh làm cho chẩn đoán nhầm là ung thư gan;
-Có thể có phù nhẹ ở mu chân (cắt nghĩa dấu hiệu này: do nung mủ kéo dài dẫn đến hạ Protein máu gây phù);
-Cổ trướng: Đi đôi với phù hậu quả của suy dinh dưỡng, không có tuần hoàn bàng hệ;
-Tràn dịch màng phổi : thường do áp xe vỡ ở mặt trên gan gần sát cơ hoành gây phản ứng viêm do tiếp cận, do đó tràn dịch không nhiều thuộc loại dịch tiết, dễ nhầm lẫn với các bệnh ở phổi;
-Lách to : rất hiếm gặp, lách to ít l - 2cm dưới bờ sườn trái dễ nhầm với xơ gan khoảng cửa.
+ Thể không điển hình
Biểu hiện theo từng thể lâm sàng:
-Thể không sốt : thật ra hoàn toàn không sốt thì không có mà là sốt rất ít một ba ngày rồi hết hẳn làm cho bệnh nhân không để ý, chỉ thấy đau hạ sườn phải, gầy sút cân... thể này gặp 9,3%;
-Thể sốt kéo dài hàng tháng trở lên liên tục hoặc ngắt quãng, gan không to thậm chí cũng không đau gặp 5%;
-Thể vàng da : chiếm 3% do khối áp xe đè vào đường mật chính.Thể này bao giờ cũng nặng, dễ nhầm với áp xe đường mật hoặc ung thư gan, ung thư đường mật;
-Thể không đau : gan to nhưng không đau, do ổ áp xe ở sâu hoặc ổ áp xe nhỏ, thể này chiếm khoảng l,9%;
-Thể suy gan : do ổ áp xe quá to phá huỷ 50% tổ chức gan, ngoài phù cổ trướng thăm dò chức năng gan bị rối loạn, người bệnh có thể chết vì hôn mê gan;
-Thể theo kích thước của gan : gan không quá to do ổ áp xe nhỏ, nhưng ngược lại gan quá to ( to quá rốn ) to có khi tới hố chậu;
-Thể áp xe gan trái : rất ít gặp, chiếm khoảng 3 -5% trường hợp, chẩn đoán khó, dễ vỡ vào màng tim gây tràn mủ màng tim;
-Thể phổi màng phổi : do viêm nhiễm ở gan lan lên gây phản ứng màng phổi, hay do vỡ ổ áp xe lan lên phổi. Triệu chứng lâm sàng phần lớn là triệu chứng ở phổi (ho, đau ngực, khạc đờm) và triệu chứng màng phổi là chủ yếu, triệu chứng về áp xe gan không có hoặc lu mờ.Thể này chẩn đoán rất khó, thường nhầm với bệnh của phổi màng phổi;
-Thể có tràn dịch màng ngoài tim : ngay từ đầu khi thành lập ổ áp xe ở gan đã có biến chứng vào màng ngoài tim, triệu chứng về bệnh tim nổi bật, còn triệu chứng về áp xe gan bị che lấp di. Thể này thường chẩn đoán nhầm là tràn dịch màng ngoài tim;
-Thể giả ung thư gan : gan cũng to và cứng như ung thư gan, hoặc cũng gầy nhanh. Thể này gặp tỷ lệ 15 -16% trường hợp.
-Phần thứ 2 của câu hỏi bạn đặt ra cho chúng tôi là tại sao giun đũa phân bố rộng hơn giun móc/mỏ? Điều này có thể đúng và có thể sai, tùy thuộc vào từng vùng địa lý khác nhau và từng quốc gia khác nhau, ngay cả trong cùng một tỉnh, một huyện hoặc một xã cũng đã có sự khác nhau rồi. Trong đó các yếu tố có thể tham gia vào làm cho các tỷ lệ mắc các loài ký sinh trùng này khác nhau, gồm yếu tố môi trường, đất đai thổ nhưỡng, khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, vùng đó có can thiệp phòng chống bệnh thường xuyên hay không, các nhóm tuoir nhạy cảm cớ được can thiệp hay không, tập quán, thói quen trong ăn uống và sinh hoạt của quần thể dân tại đó;
-Phần thứ 3 của câu hỏi có liên quan đến căn bệnh do nấm Candida spp. Triệu chứng của tưa lưỡi, viêm âm đạo do nấm này như thế nào? Chúng tôi xin trả lời như sau:
Nấm Candida albicans sống bình thường trong ruột người và nhiều loại thú. Trên những nhóm người bình thường, khỏe mạnh, làm xét nghiệm có thể tìm thấy 39% có nấm Candida ở âm đạo, 30% ở miệng, 38% ở ruột, 46% có ở các nếp xếp (quanh hậu môn và 17% có ở phế quản (cùng một lúc bệnh nhân có thể bị nhiễm nấm nhiều nơi trên cơ thể, đặc biệt trên các cơ địa suy giảm miễn dịch). Điều đặc biệt, đây chính là những người hoàn toàn khỏe mạnh, không có một biểu hiện nào liên quan đến nhiễm nấm. Và trên các trường hợp này, vi nấm Candida albicans giữ một thể cân bằng với các vi khuẩn cùng sống với nó trên cùng cơ thể. Tất cả tạo thành một quần thể vi sinh sống bình thường của cơ thể. Trong một số điều kiện thuận lợi nhất định, vi nấm sẽ chuyển từ trạng thái “yên lặng” sang trạng thái “gây bệnh”. Đặc trưng của trạng thái này là số lượng vi nấm tăng lên rất nhiều, cho phép vi nấm len lỏi vào những tế bào của ký chủ và xâm nhập sâu hơn, người bệnh bắt đầu có biểu hiện các triệu chứng của bệnh nấm.
* Biểu hiện bệnh nấm Candida albicans ở âm đạo
Nhiễm nấm âm đạo thường gây ra bởi nấm Candida Albicans. Nấm là vi sinh vật ký sinh ở một số nơi trên da và bên trong âm đạo. Môi trường axít trong âm đạo giữ cho nấm không bùng phát. Nếu môi trường âm đạo bị kiềm hóa vì một lý do nào đó, nấm bùng phát (phát triển mạnh) gây ra chứng nhiễm nấm âm đạo. Môi trường acid âm đạo thường thay đổi trong khi hành kinh, mang thai, tiểu đường, dùng kháng sinh, thuốc ngừa thai và các thuốc chứa steroid. Ứ dịch âm đạo và những kích thích âm đạo là điều kiện kích thích cho nấm phát triển.
Bệnh viêm âm hộ, âm đạo do nấm rất hay gặp ở phụ nữ, nó đứng thứ hai sau viêm âm đạo do vi khuẩn và thường cao gấp 3 lần bệnh trùng roi âm đạo. Khoảng 75% phụ nữ trên thế giới bị nhiễm nấm (khoảng 50% phụ nữ bị nhiễm khuẩn hơn một lần trong đời). Người ta thống kê và nhận thấy có khoảng 30% phụ nữ có thai bị nhiễm nấm Candida âm đạo. Đây cũng chính là nguyên nhân gây nhiễm nấm ở trẻ sơ sinh do bị lây nhiễm trong lúc sinh- thường gặp là nấm miệng, chính vì vậy, mọi thai phụ đều nên được khám âm đạo trước khi sinh từ 4 đến 6 tuần, để nếu có bệnh sẽ được điều trị kịp thời, phòng tránh được việc lây nhiễm từ mẹ sang con.
Đàn ông khi quan hệ tình dục với phụ nữ bị bệnh cũng có thể bị viêm quy đầu, bao quy đầu gây đỏ, ngứa, cảm giác bỏng, rát và có chất nhày trắng tiết ra đầu dương vật
Nguyên nhân: ngoài các yếu tố thuận lợi trên, bệnh còn hay gặp ở những người không giữ vệ sinh cẩn thận, hoặc vệ sinh không đúng cách (thụt rửa âm đạo thường xuyên, làm rối loạn môi trường sinh lý và vi sinh âm đạo); hoặc mặc quần bó, chật, mặc quần lót bằng sợi nilon, để quần bị ẩm ướt thường xuyên do mồ hôi, nước tiểu,…dễ làm cho nấm phát triển; lúc thời tiết thay đổi, làm việc căng thẳng, hay bị Stress, bệnh tật cũng làm sức đề kháng trong cơ thể suy yếu, dễ bị vi khuẩn và nấm tấn công.
Triệu chứng: ngứa và nóng rát ở cơ quan sinh dục ngoài (âm hộ và âm đạo), dịch tiết âm đạo (huyết trắng bệnh lý) giống như pho-mát, đau khi giao hợp và sưng tấy âm hộ ngứa, đỏ tấy vùng sinh dục, chất huyết trắng có thể đóng thành mảng, có thể đi tiểu rát. Khi đó, nên đến bác sĩ để chẩn đoán, sàng lọc thêm các bệnh lý lây lan qua đường tình dục khác. Đôi khi nấm chỉ là một cái cớ để tầm soát các bệnh nặng hơn. Nếu chúng ta tự điều trị nấm mà không biết rằng chúng ta còn bị các nhiễm khuẩn khác thì tình hình ngày càng xấu hơn.
Điều trị nấm thường được điều trị bằng thuốc đặt âm đạo. Thuốc này có thể dưới dạng kem bôi bên trong âm đạo. Hoặc có thể dưới dạng viên đặt. Thuốc ở dạng kem có thể bôi ở âm hộ để giảm ngứa và một số dạng uống chóng nấm.
Cách đề phòng: giữ vệ sinh cá nhân cho vùng âm hộ, âm đạo luôn khô, sạch, lau khô sau mỗi khi đi vệ sinh, tắm, bơi. Thường xuyên thay quần lót, nên sử dụng quần lót bằng sợi cotton cho thông thoáng, dễ hút mồ hôi, tránh ẩm ướt; không nên mặc quần nilon, quần quá chật trong thời gian dài. Sau khi đi vệ sinh, phải rửa sạch và lau khô theo nguyên tắc "từ trước ra sau" - tức là từ âm hộ ra hậu môn, để tránh vi khuẩn từ phân, từ vùng hậu môn lọt vào vùng âm đạo. Không dùng các dụng cụ thụt rửa âm đạo, không dùng các sản phẩm vệ sinh phụ nữ dưới dạng xịt phun, không dùng các sản phẩm có chất khử mùi và có màu lau rửa cơ quan sinh dục ngoài; không nên tắm bồn, không ngâm mình trong nước nóng quá lâu; tránh giao hợp trong những ngày có kinh; chỉ thụt rửa âm đạo khi cần thiết, theo chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ; nên đi khám phụ khoa định kỳ mỗi 3-6 tháng một lần; điều trị thuốc không được tùy tiện, tuyệt đối theo chỉ dẫn của bác sĩ, dược sĩ.
* Nhiễm nấm Candida ngoài da, niêm kẻ cả lưỡi
Candida là tên gọi của một loại nấm hiện diện khắp nơi kể cả cơ thể con người. Thông thường hệ thống miễn dịch của cơ thể ngăn chặn sự tăng trưởng của candida. Khi hệ thống đề kháng của cơ thể suy kém, hoặc khi dùng thuốc kháng sinh lâu ngày, candida có thể sinh sản và gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng candida ảnh hưởng đến nhiều nơi trong cơ thể và ảnh hưởng khác nhau:
• “Thrust” là sự nhiễm trùng trong miệng, tạo ra những đốm trắng do mảng nấm tạo ra;
• Nhiễm trùng candida tại thực quản do lan từ miệng, gây khó khăn cho nhai nuốt;
• Nhiễm trùng candida tại âm hộ gây ngứa, đau rát;
• Nhiễm trùng candida ngoài da gây ngứa;
• Nhiễm trùng candida trong máu có thể gây tử vong, và nhiễm nấm ngoài da nữa.
Nguyên nhân do cơ thể con người là môi trường sinh sống của một số vi sinh vật, kể cả vi khuẩn và nấm. Một số các loại vi sinh này hữu ích cho cơ thể, một số không có ích nhưng cũng không nguy hại và số còn lại gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng nấm gây ra bởi các loại nấm có thể sống trong các mô được xem như “chết” như tóc, móng tay, móng chân và lớp ngoài của da. Nhiễm trùng nấm bao gồm loại nhiễm trùng “mold” (như nấm dermatophyte) và “yeast” (như nấm candida). Nhiễm trùng candida ngoài da xuất hiện tại các vùng da ấm, ẩm ướt, xếp lớp như nách và háng. Loại nhiễm trùng này xảy ra khá thông thường.
Candida là nguyên nhân thường thấy nhất trong các loại nốt ngứa do tã lót ẩm ướt của trẻ em, hầu hết do loại nấm Candida albicans. Nhiễm trùng candida cũng thường xuất hiện trong những người bị tiểu đường và những người bị béo phì. Thuốc kháng sinh và thuốc ngừa thai gia tăng tỷ lệ bị nhiễm trùng do candida gây ra. Nhiễm trùng candida tại móng tay và khóe miệng cũng thường hay gặp. Nhiễm nấm candida trên màng nhàytrong miệng, xuất hiện khi dùng thuốc kháng sinh tương tự như nhiễm trùng candida tại âm hộ. Thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn và do đó tạo cơ hội cho candida tăng trưởng.
Triệu chứng có thể ngứa, nỏi mề đay trên da, da đỏ và rát, những mảng da nổi cứng dạng bong bóng hoặc mụt nhỏ, những mảng da nhỏ xen kẽ những mảng da lớn, ở những vùng da xếp nếp, chỗ kín, lưng, mông, dưới vú hoặc những nơi khác; nhiễm trùng lỗ chân lông,…
Việc chẩn đoán bệnh tùy theo những vệt ngứa trên da, nhất là khi có các yếu tố gia tăng tỷ lệ nhiệm trùng như tiểu đường, hệ miễn dịch suy yếu, dùng thuốc hoặc dược thảo có tính kháng sinh. Một vảy da dưới kính hiển vi có dạng nấm candida là cách chẩn đoán xác định sớm nhất.
Điều trị là cần giữ vệ sinh tốt để ngăn nhiễm candida nhanh chóng nhất: giữ da khô và thoáng, người béo phì cần giảm cân, tiểu đường cần giữ lượng đường huyết trong mức bình thường liên tục. Chữa trị bằng cách dùng những loại thuốc để thoa ngoài da, trên vảy ngứa và thuốc chống nấm loại uống để trị nhiễm trùng tại móng tay hoặc chân lông. Khi bị nhiễm nấm đi kèm candida tại âm hộ, cần dùng các loại thuốc đạt âm đạo hoặc dạng kem.
Hy vọng với những phần trả lời của chúng toi sẽ làm bạn hài lòng, thân chúc bạn vui, khỏe.
3. Nguyễn Hùng Nguyên-hcantho@gmail.com-0923003114
Hỏi: Hôm 30 tháng 12 năm 2009, em có đi làm xét nghiệm ở Trung tâm Chẩn đoán y khoa Medic và kết quả là em bị nhiễm giun đũa chó và giun lươn. Khi có kết quả bác sỹ cho em uống thuốc hiệu PIZAR ( Ivermectin 6mg), uống mỗi ngày 2 viên và liên tục trong 3 ngày sau đó nghỉ 2 tuần và tiếp tục uống mỗi ngày 2 viên và liên tục trong 2 ngày. Vậy là em phải uống tổng cộng 10 viên. Vì thuốc này theo em đọc trên tờ hướng dẫn sử dụng thì mỗi người chỉ uống 1 lần duy nhất và nhiều nhất là 2 viên (vì tác dụng phụ thuốc là rất lớn). Với lại, em đã đọc kỹ nhiều lần trên các trang Web thì em thấy thuốc này không phải là biệt dược dùng để trị giun đũa chó. Chính vì những lý do trên mà cho đến ngày hôm nay em đã mua thuốc gần một tuần rồi mà em vẫn chưa dám uống. Em rất mong một lời chỉ dẫn chân thành của bác sỹ!
Trả lời: trước hết chúng tối chân thành xin lỗi vì đã phúc đáp cho bạn muộn vì công việc cuối nămvà đầu năm 2010 quá bận rộn nên đã chậm như thế. Liên quan đến câu hỏi của bạn về nhiễm giun đũa chó mèo (Toxocara spp) và giun lươn (Strongyloides stercoralis) mà các bác sĩ đã cho bạn uống thuốc Pizar (một loại biệt dược của thuốc Ivermectine 6mg). Theo quan điểm điều trị của chúng tôi liều như các bác sĩ đã chỉ định cho bạn như thế là phù hợp (nếu bạn hoặc người thân của bạn là người trưởng thành ≥ 15 tuổi). Loại thuốc này là một trong những thuốc đặc hiệu trong điều trị bệnh giun lươn (Strongyloides stercoralis) và hiệu quả của nó qua nhiều nghiên cứu lâm sàng để đánh giá hiệu quả điều trị cho thấy khoảng 74-89% là khỏi bệnh. Riêng giun đũa chó hiện nay, phác đồ chuẩn y vẫn là dùng thuốc Triabendazole (biệt dược là Mintazole 500mg), thuốc này khan hiếm trên thị trường Việt Nam hiện tại, nên bạn có thể dùng thuốc thay thế là Albendazole 400mg (tuy hiệu quả dao động khoảng 69-92%) trong trường hợp bạn không mua được thuốc thiabendazole. Liều dùng của các thuốc này cũng được ghi rất chi tiết cũng như các tác dụng ngoại ý do thuốc trong quá trình dùng cũng được đề cập chi tiết trong các hộp thuốc.
Chúc bạn mau chóng bình phục!
4. Phạm Tăng Hiếu-phamhieu.sr47@yahoo.com - Đak G’Long, Đak Nông
Hỏi: Trước tiên, nhân dịp năm mới tôi xin chúc anh (chi) cùng gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng, hạnh phúc. Anh (chị) có thể cho tôi biết: theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt rét (Ban hành theo quyết định số: 4605/QĐ-BYT ngày 24/11/2009 của Bộ Y tế) thì BNSRLS khi có đủ 4 đặc điểm : (....), nhưng trong đặc điểm thứ 3 có ghi (đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét lưu hành, có tiền sử mắt sốt rét trong 2 năm gần đây) tuy nhiên trong phần chẩn đoán sốt rét thể thông thường người ta ghi "hoặc" thay vì phẩy "," ở phần Quy định chung. Nên tôi còn phân vân giữa " hoặc" và dấu phẩy ",". Vậy, nếu bệnh nhân không nhớ tiền sử có mắc SR trong 2 năm gần đây mà có đủ các yếu tố khác trong 4 đặc điểm để chẩn đoán BNSRLS (theo hướng dẫn 2009 của bộ Y tế ) thì có được xác định là BNSRLS hay không? Xin cảm ơn!
Trả lời:Cảm ơn đồng nghiệp cùng làm chuyên ngành sốt rét với chúng tôi, kính chúc anh và gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng. Liên quan đến câu hỏi chuyên mục chẩn đoán sốt rét theo Hướng dẫn ban hành năm 2009. Chúng tôi đồng ý với câu hỏi của anh rằng nếu bệnh nhân không nhớ về tiền sử có mắc sốt rét trong vòng 2 năm gần đây thì các tiêu chuẩn còn lại vẫn có ý nghĩa và khi đó chúng ta vẫn xem là một ca bệnh SRLS.
5. Lê Tuấn Viên, Vien_letuan72@yahoo.com
Hỏi: xin các bác sĩ cho biết đôi nét về bệnh mắt hột, biến chứng và nguyên nhân gây bệnh, cách điều trị? Xin cảm ơn các bác sĩ!
Trả lời:
Với câu hỏi của bạn chúng tôi xin trả lời như sau: bệnh mắt hột được xem là một trong những bệnh nhiễm trùng cổ nhất của nhân loại, gây ra bởi tác nhân Chlamydia trachomatis – một loại vi khuẩn có thể lan rộng qua con đường tiếp xúc với chất tiết của mắt ngườid đang nhiễm bệnh (qua khăn lau mặt, khăn tay, ngón tay,…) và lây truyền qua ruồi. Sau nhiều năm nhiễm trùng lặp lại, bên trong mi mắt và giác mạc có thể để lại sẹo hoặc lông quặm vào trong mắt, tạo vết sẹo ở giác mạc. Nếu không điều trị, tình trạng này có thể dẫn đến hình thành các vết sẹo giác mạc, gây mờ đục và mù. Mắt hột có ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở những nước nghèo, chậm phát triển. Tình trạng vệ sinh càng kém thì sự sinh bệnh, lây truyền càng nặng; bệnh có thể lây lan do các yếu tố như nguồn nước bị ô nhiễm; dùng nước ao hồ trong sinh hoạt như tắm rửa, ăn uống; trong gia đình hay nhóm bạn, nhà trẻ dùng chung khăn mặt, thau rửa mặt, bồn tắm...
Biểu hiện của bệnh mắt hột: khoảng 5 - 12 ngày sau khi xâm nhập vào mắt, vi khuẩn gây viêm mí và màng của mắt. Mắt sưng, đỏ hồng, ngứa ngáy khó chịu rồi nếu để lâu không chữa sẽ thành các vết thẹo trong mí và mắt. Khi mí mắt sưng có thể làm lông mi quặm vào trong, cọ sát vào tròng mắt tạo thêm vết thẹo, làm mờ mắt hay mù mắt. Tùy theo thể bệnh nhẹ hay nặng mà có những biểu hiện khác nhau: [1] không có triệu chứng gì; [2] có dấu hiệu nặng nề, kéo dài dai dẳng, nhiều biến chứng nguy hiểm có thể dẫn đến mù lòa. Bệnh biểu hiện rất đa dạng với các triệu chứng như sau:
-Ngứa mắt; cảm giác vướng như có hạt bụi trong mắt;
-Đau nhẹ, cộm xốn trong mắt;
-Xem báo, đọc sách hay sử dụng máy vi tính nhanh mỏi mắt nhất là buổi chiều.
-Ở thể nhẹ hay gọi là mắt hột đơn thuần, tổn thương chỉ xuất hiện ở lớp biểu mô kết mạc. Bệnh nhân không có triệu chứng gì, hoặc chỉ ngứa mắt, xốn mắt, mỏi mắt, đôi khi hay chảy nước mắt. Nhiều khi bệnh nhân không biết, không điều trị, bệnh có thể tự khỏi do thói quen sinh hoạt giữ vệ sinh sạch và không bị tái nhiễm, không để lại di chứng và không gây mù.
-Đối với thể nặng tổn thương xâm nhập xuống cả những lớp sâu bên dưới của kết mạc mắt, có thể gây các biến chứng như lông quặm, lông siêu, sẹo giác mạc, nguy hiểm nhất là dẫn đến mù lòa. Bệnh trầm trọng, nặng nề và kéo dài, không thể tự khỏi nếu không được điều trị tốt (bệnh nhân bị mắt hột có biến chứng sẽ có 3 triệu chứng: trụi lông mi, mắt ướt, bờ mi đỏ mà dân gian gọi là mắt toét).
Tùy theo thể bệnh nhẹ hay nặng mà có những biểu hiện: không có triệu chứng gì; có dấu hiệu nặng nề, kéo dài dai dẳng, nhiều biến chứng nguy hiểm có thể dẫn đến mù lòa. Bệnh biểu hiện rất đa dạng với các triệu chứng như sau: ngứa mắt; cảm giác vướng như có hạt bụi trong mắt; đau nhẹ, cộm xốn trong mắt; xem báo, đọc sách hay sử dụng máy vi tính nhanh mỏi mắt nhất là buổi chiều. Ở thể nhẹ hay gọi là mắt hột đơn thuần, tổn thương chỉ xuất hiện ở lớp biểu mô kết mạc. Bệnh nhân không có triệu chứng gì, hoặc chỉ ngứa mắt, xốn mắt, mỏi mắt, đôi khi hay chảy nước mắt. Nhiều khi bệnh nhân không biết, không điều trị, bệnh có thể tự khỏi do thói quen sinh hoạt giữ vệ sinh sạch và không bị tái nhiễm, không để lại di chứng và không gây mù. Đối với thể nặng tổn thương xâm nhập xuống cả những lớp sâu bên dưới của kết mạc mắt, có thể gây các biến chứng như lông quặm, lông siêu, sẹo giác mạc, nguy hiểm nhất là dẫn đến mù lòa. Bệnh trầm trọng, nặng nề và kéo dài, không thể tự khỏi nếu không được điều trị tốt. Bệnh nhân bị mắt hột có biến chứng sẽ có 3 triệu chứng: trụi lông mi, mắt ướt, bờ mi đỏ mà dân gian gọi là mắt toét.
Các biến chứng do mắt hột: bệnh nhân bị mắt hột có thể dẫn tới các biến chứng: viêm kết mạc mạn tính bị đỏ mắt, ngứa, cộm, xốn quanh năm; lông quặm, lông xiêu là tình trạng tổn thương kết mạc bờ mi gây cho lông mi bị xiêu vẹo, biến dạng, quặp vào cọ xát liên tục vào giác mạc, gây tổn thương, trầy sướt, loét giác mạc, làm mờ đục giác mạc. Do vệ sinh kém bị nhiễm khuẩn gây viêm mủ nhãn cầu có thể phải khoét bỏ mắt hoặc viêm teo mắt dẫn đến mù lòa; Viêm sụn mi là tổn thương làm bờ mi dày lên, xơ hóa, biến dạng sụn mi; Loét giác mạc làm bệnh nhân bị đau mắt, nhức mắt, sợ ánh sáng, hậu quả là biến dạng giác mạc gây loạn thị, đục giác mạc và dẫn đến mù lòa; Bội nhiễm là do bệnh mắt hột làm cho giác mạc bị tổn thương dễ bị nhiễm khuẩn, nhiễm virut và cả nhiễm vi nấm, dẫn đến viêm loét giác mạc, có thể gây mù lòa; U hột ở rìa giác mạc lan vào diện đồng tử và có khi lan cả toàn bộ giác mạc; Loạn thị vì sạn vôi và các sẹo mắt hột cọ sát lâu ngày trên giác mạc làm giác mạc ghồ ghề, lởm chởm, sai lệch đường đi của ánh sáng, gây loạn thị, giảm thị lực; Viêm tuyến lệ, tắc ống dẫn lệ dẫn đến mờ mắt, chảy nước mắt sống. Khô mắt, khô giác mạc: do các ống tuyến bị teo, giảm tiết dịch, mắt trắng khô, mờ hẳn, có thể dẫn tới tình trạng loét giác mạc, thủng giác mạc và gây mù mắt.
Chúc bạn khỏe và có thể xem thông tin về bệnh mắt hột một cách chi tiết, bạn có thể truy cập website của Viện http://www.impe-qn.org.vn sẽ rõ hơn.
6. Nguyễn Trường Giang, KP2, T.T Phương Hòa, giangtruong_ng@yahoo.com.
Hỏi: Xin chào ban biên tập của Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, là một cán bộ y tế nên tôi thường xuyên đọc tham khảo về các thông tin về sức khỏe thông thường và chuyên ngành. Gần đây, bệnh sán lá gan lớn xuất hiện ngày càng nhiều. Tôi có lên mang internet truy cập tài liệu về bệnh này ở người, thấy phần lớn các bài viết về sán lá gan lớn trong nước là từ Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn vừa phổ cập kiến thức lại vừa mang tính chuyên môn sâu. Tuy nhiên, trong một bài viết của Thạc sĩ, Bác sĩ Huỳnh Hồng Quang có nói sán lá gan lớn là bệnh của động vật truyền sang người, chủ yếu là trên các động vật nhai lại. Xin cho tôi hỏi như vậy thì thế nào là động vật nhai lại và vì sao gọi là nhai lại để tôi hiểu rõ hơn. Kinh chân thành cảm ơn quý bác sĩ của Viện.
Trả lời: Chúng tôi thật sự cảm ơn bạn đã quan tâm nhiều đến thông tin y học, đặc biệt là những thông tin “phổ thông và chuyên sâu” về căn bệnh sán lá gan của chúng tôi đưa lên giới thiệu trên trang website: http://www.impe-qn.org.vn. Chúng tôi cũng vui khi chia sẻ cùng bạn một câu hỏi đầy thú vị về động vật nhai lại.
Động vật nhai lại là các động vật bao gồmcó trâu, bò, dê, cừu, lạc đà, hươu, nai,…đây là những động vật được xem là vật chủ của căn bệnh sán lá gan lớn (Fascioliasis) có thể truyền sang người. Sỡ dĩ gọi là động vật nhai lại vì các loài này trên cơ thể có 4 dạ dày và được phân biệt theo chức năng là dạ cỏ, dạ tổ ong, lá sách và sách. Khi các động vật này ăn thức ăn vào không được nhai kỹ mà chúng được chuyển từ phần dạ cỏ đến dạ tổ ong. Qua quá trình lên men tiêu hóa, thức ăn này lại quay trở lên vị trí miệng và sau nhiều lần nhai đi nhai lại, nó được đưa xuống phần dạ dày thứ 3, cuối cùng đưa đến phần sách để hấp thụ. Về sinh lý của dạ dày các động vật này theo đó bạn sẽ thấy khác hẳn với cơ chế sinh lý của dạ dày và quy trình tiêu hóa ở người. Hy vọng với câu trả lời này sẽ làm bạn rõ hơn về từ nhai lại.
Xin chúc bạn khỏe.
7. Lehoangquan@gmail.com, TTYT TX Thủ Dầu Một
Hỏi: Tôi là một cán bộ điều trị, đã nhiều lần gặp tình trạng sản phụ mang thai bị mắc sốt rét đến điều trị tại phòng mạch, tuy nhiên các lĩnh vực về ảnh hưởng của sốt rét trong khi mang thai lên đứa con trong bụng như thế nào, xin các bác sĩ của Viện cho biết rõ hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Trả lời: Chúng tôi xin chia sẻ với bạn về nguy cơ cho phôi, thai trong sốt rét thai nghén của một sản phụ chẳng may mắc sốt rét như sau:
Sốt rét ở PNMT là một bất lợi cho thai nhi, tình trạng sốt cao, suy bánh nhau, hạ đường huyết và một số biến chứng khác có thể gây ảnh hưởng bất lợi cho thai nhi. Cả sốt rét do P. vivax và P. falciparum đều có thể là vấn đề cho thai và phôi cũng như biến chứng muộn nghiêm trọng. Tử vong trước sinh và tử vong sơ sinh chiếm khoảng 15-70%. Trong một nghiên cứu khác, tỷ lệ tử vong do sốt rét P.vivax trong thời gian mang thai là 15.7%, trong khi với P.falciparum là 33.0%. Sẩy thai tự phát, sinh non, thai lưu, suy bánh nhau và chậm phát triển trong tử cung (tạm thời hay mạn tính), cận nặng thấp, suy thai là những khía cạnh cũng được phát hiện trên thai nhi đang phát triển.
Sự lây truyền sốt rét qua bánh nhau lan rộng đến phôi thai có thể dẫn đến bệnh sốt rét bẩm sinh. Tỷ lệ sốt rét bẩm sinh hiếm xảy ra, tỷ lệ rất nhỏ, khoảng chừng < 5% trong tổng số các bà mẹ mang thai bị mắc sốt rét. Hàng rào bánh nhau và các kháng thể IgG đi qua nhau có thể bảo vệ phôi thai trong một số trường hợp. Tuy nhiên, con số này hay gặp ở quần thể không có miễn dịch và tỷ lệ tăng lên trong những vùng dịch khác nhau. Nồng độ quinine và chloroquine trong huyết tương của phôi thai khoảng 1/3 nồng độ thuốc trên cơ thể người mẹ khi điều trị, điều này cho thấy nồng độ thuốc dưới liều điều trị không đủ chữa khỏi nhiễm sốt rét ở phôi thai. Tất cả 4 chủng KSTSR đều có thể gây sốt rét bẩm sinh, nhưng tỷ lệ cao hơn vẫn là loài P. malariae. Những đứa trẻ mới sinh có thể có đặc điểm lâm sàng là sốt, kích thích quấy khóc, vấn đề bú không xảy ra bình thừơng, gan lách to, thiếu máu nặng, vàng da. Chẩn đoán có thể được xác định bằng xét nghiệm lam máu tìm KSTSR ở máu dây rốn, tại chỗ gót chân bất kỳ thời điểm nào trong một tuần đầu sau sinh.
8. Trung Thanh L, trungthanh67@yahoo.com, 0982345347
Hỏi: Em xin được hỏi, gia đình em chuẩn bị đi dã ngoại trong khu vườn sinh thái quốc gia, để phòng tránh các loài côn trùng, sâu bọ cắn, đốt. Xin vui lòng chỉ bảo gia đình em cần chuẩn bị những vật dụng gì cần thiết để tránh làm mất vui trong khi du lịch.
Trả lời:
Để gia đình bạn có một kỳ nghỉ, đặc biệt là nghỉ trong khu rừng sinh thái thì thật thú vị. Chúng tôi đưa ra một số biện pháp phòng tránh côn trùng thường áp dụng dưới đây:
Nhằm để môi trường sống và làm việc không còn sợ ảnh hưởng của các laòi côn trùng và đặc biệt các cuộc du lịch hay dã ngọai đến các vùng sơn cước, ẩm thấp an toàn và vui trọn hưởng thời gian tuyệt vời, nhất là các mùa hè-thời điểm thích hợp cho việc vui chơi, dã ngoại cùng nhiều hoạt động ngoài trời khác. Song cùng với đó là những khó chịu về những “dị ứng” do vô tình phơi nhiễm với các loại côn trùng. Chúng ta nên tham khảo một số biện pháp phòng tránh sau đây:
-Các loại bọ chét, rận rệp thường hoạt động mạnh vào mùa hè, nhất là khoảng tháng 6-7. Khi bạn đi vào những khu rậm, cây cối nhiều, nên cẩn thận về chúng;
-Một phương pháp rất thực tế để thử xem trong một vùng cỏ rậm rạp có bọ chét hay không? Dùng một miếng vải trắng cột vào đầu một sợi dây và kéo miếng vải này qua vùng cỏ bạn nghĩ là có bọ chét. Khi vùng cỏ hay bụi rậm này có sự hiện diện của chúng, chúng sẽ bám vào mảnh vải trắng này;
-Khi phải sinh hoạt trong một vùng có nhiều bọ chét, dĩ nhiên nên mặc y phục càng kín càng tốt để tránh bị chúng tấn công. Những côn trùng này có hàm răng ngắn nên không thể cắn xuyên qua quần áo như muỗi được. Ngoài ra các mẹo vặt chống côn trùng nói ở phần ruồi muỗi cũng có thể được sử dụng hiệu quả đối với bọ chét và các côn trùng khác;
-Pha thuốc tẩy chlorine vào nước tắm, nồng độ loãng, thường tiết ra mùi làm cho các côn trùng không dám đến gần. Trước khi đi cắm trại. Các hồ bơi thường cũng được sát trùng bằng chlorine, bạn có thể ngâm trong hồ bơi 15 phút trước khi khởi hành chuyến cắm trại ngoài trời của bạn. Mùi thuốc tẩy này giữ được côn trùng không dám tấn công bạn trong nhiều giờ;
-Môi trường sống của chúng ta phải sạch sẽ, thông thoáng. Ở những nơi nhiều cây cỏ, bụi rậm, ta có thể thực hiện một số biện pháp như dọn dẹp vệ sinh môi trường xung quanh khu vực nơi ở, gom xác cây mục, cỏ khô đem đốt để xua đuổi côn trùng, phun xịt thuốc diệt côn trùng những nơi um tùm rậm rạp cạnh khu dân cư;
-Ngoài ra, các côn trùng thường nhạy cảm và thích đến những nơi có ánh sáng đèn huỳnh quang. Do đó, ta có thể dùng đèn huỳnh quang để ngoài cửa dụ nó vào và tiêu diệt. Khi côn trùng bò lên da, nên dùng tay hất xuống đất và dùng chân mang dép hoặc vật gì đó đập cho chết, tránh để dịch tiết của nó dính vào da.
-Khi ngủ kể cả ban ngày cần mắc màn, cho trẻ nằm trong nôi, cũi có phông màn che chống ruồi, muỗi và các loại côn trùng khác. Những người thường làm việc vào buổi tối dưới ánh đèn cần đóng cửa sổ hoặc lưới ngăn côn trùng bay vào, nhất là vào mùa mưa. Chú ý phát hiện những côn trùng ở trong nước tắm, khăn mặt, quần áo trước khi dùng;
-Có thể dùng các thuốc bôi chống muỗi thoa lên khắp người để chống muỗi và các côn trùng khác. Cẩn thận tránh không để thuốc dính vào mắt;
-Uống sinh tố B1 và chất kẽm: sinh tố B1 (Thiamine hydrochloride) khi uống vào, làn da chúng ta sẽ sinh ra mùi thuốc làm các côn trùng không dám đến gần. Thuốc có thể mua tại các quầy thuốc dưới sự hướng dẫn uống của bác sĩ hoặc dược sĩ. Việc uống chất kẽm với liều lượng 60mg mỗi ngày, sau một tháng, bạn sẽ có khả năng chống không cho côn trùng đến gần. Nếu tiếp tục uống chất này, bạn không bao giờ còn sợ ruồi muỗi nữa)
Hoặc, 4 biện pháp phòng ngừa hiệu quả khi đi du lịch dã ngoại đã được khuyến cáo:
1.Chuẩn bị "mặt nạ" cho cơ thể
Hãy nghĩ đến các loại kem bôi, nước hoa... có tác dụng bảo vệ chúng ta khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với các loại côn trùng. Các hoạt chất này khi được sử dụng sẽ tạo ra một môi trường vô hình cách ly cơ thể khỏi sự nhận biết của giác quan côn trùng, thậm chí một số chất có thể gây ra những mùi hương phản cảm với côn trùng, khi đó chúng ta sẽ trở nên vô hình đối với chúng. Song, khi sử dụng chúng ta cũng đặc biệt quan tâm đến những phản ứng của cơ thể đối với các loại kem thoa, nước hoa hoặc một số dung dịch đó. Nếu cơ thể dị ứng với các chất trong thành phần của chúng thì tốt nhất là không nên sử dụng, tránh cho cơ thể những phiền toái khi tiếp xúc với các hoạt chất đó.
Chúng ta cũng cần quan tâm đến thời gian tác dụng hay “thời gian còn hiệu dụng” của chúng khi sử dụng, tránh tình trạng cơ thể bị mất tấm màn bảo vệ trong khi chúng ta vẫn thả mình vào các hoạt động vui chơi ngoài trời. Tuy nhiên, không nên để các loại kem bôi, nước hoa dính vào mắt, mũi, miệng và các vết thương hở trên cơ thể, bởi chúng có thể gây ra các tác dụng không mong muốn. Nói chung, các loại mặt nạ cho cơ thể đều có tác dụng tốt đối với các loài côn trùng nhỏ, nhưng dường như chúng không thật sự có tác dụng đối với các loài ong!
2. Trang phục bảo vệ
Không nên sử dụng trang phục quá chật bởi một số loài côn trùng như muỗi sẽ dễ dàng tiếp xúc với làn da. Màu của trang phục cũng không kém phần quan trọng: rất nhiều loài côn trùng sẽ nhận biết và tấn công chúng ta nếu có sự tương phản lớn giữa màu da và màu trang phục đang mặc. Do vậy, nếu chúng ta có làn da trắng thì nên sử dụng trang phục màu sáng. Ngược lại, nếu làn dahơi sậm thì tốt nhất nên sử dụng những trang phục màu tối. Tuy nhiên, nên quan tâm tới môi trường nơi chúng ta đến, vì một sự nổi bật trong trang phục sẽ càng kích thích côn trùng nhiều hơn. Cuối cùng, đôi tất cũng cần được bạn quan tâm. Một số loài côn trùng rất nhạy cảm với mùi từ đôi chân của bạn. Do vậy, bạn nên sử dụng loại tất có thể thấm hút nhanh mồ hôi, khô thoáng để tránh gây mùi kích thích côn trùng.
3. Phương tiện chiếu sáng
Trong những buổi dã ngoại hay bữa tiệc ngoài trời, nên chuẩn bị thêm nến, đèn cũng như những vật dụng chiếu sáng cần thiết. Khi màn đêm buông xuống, hình ảnh lung linh của ngọn nến sẽ càng làm không gian thêm lãng mạn. Hơn nữa, với một số loại nến như loại nến được chiết xuất từ dầu sả, không chỉ có tác dụng của một ngọn nến đơn thuần mà nó còn giúp tạo ra mùi hương ngăn cản côn trùng xâm nhập không gian của bạn. Khi sử dụng, bạn không nên đặt các ngọn nến tập trung vào một chỗ mà nên đặt chúng cách nhau khoảng 5m và theo vòng tròn. Như vậy sẽ đạt hiệu quả cao nhất.
4. Nên chuẩn bị một chiếc quạt
Với một chiếc quạt, bạn không chỉ có thể xua tan cái nóng bức của mùa hè mà còn có thể bảo vệ bạn tránh tiếp xúc với các loại côn trùng có hại. Với kích thước nhỏ bé, chắc chắn côn trùng sẽ không thể nào có đủ sức để tiếp cận với làn da của bạn. Giáo sư nhi khoa và bệnh da liễu Robin Carder cho biết khi bị côn trùng xâm hại thì ngứa là dấu hiệu bình thường, nhất là bọ chét., song các dấu kháng đáng sợ hơn, có thể bội nhiễm với vi khuẩn, hoại tử lan rộng và tử vong nhanh. Điều quan trọng là liệu xem có khả năng nhiễm trùng thứ phát đi kèm để có hướng xử trí kịp thời. Một số trường hợp côn trùng có nọc độc dễ gây bệnh và sốc phản vệ, trụy tim mạch và chuyển cấp cứu không kịp, nên nạn nhân rất dễ tử vong, do đó các biện pháp sơ cứu ở trên sẽ có ích trước khi có điều trị đặc hiệu. Cần lưu ý rằng không phải nọc đọc côn trùng nào cũng có antidot, nên đừng chần chừ đợi mong một antidot đặc hiệulà bệnh đã quá muộn.