Là trọng điểm sốt rét của tỉnh Quảng Nam, toàn bộ huyện Nam Trà My đều nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng và có sự gia tăng bệnh nhân sốt rét (BNSR) từ tháng 3/2005. Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, Trung tâm PCSR Quảng Nam và Trung tâm y tế huyện Nam Trà My đã có nhiều nỗ lực trong việc tăng cường giám sát và thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét nhằm hạn chế sự gia tăng sốt rét.
Tuy nhiên, qua bảng biểu đồ diễn biến sốt rét các tháng đầu 2005 thấy chỉ số bệnh nhân sốt rét (BNSR) và ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) vẫn diễn biến dai dẳng và phức tạp, mặc dù đang vào thời kỳ đỉnh cao của mùa truyền bệnh sốt rét. BNSR cao nhất vào tháng 6,7,8. Từ tháng 4 đến tháng 9/2005, BNSR vẫn chưa có xu hướng giảm, tỷ lệ KSTSR chiếm 6,57% so với tổng số lam xét nghiệm.
Biểu đồ biểu diễn diễn biến BNSR và tỷ lệ KSTSR 9 tháng 2005/20054
Nỗ lực khống chế sự gia tăng sốt rét, 9 tháng đầu năm 2005 huyện Nam Trà My đã được tăng cường công tác điều trị với tổng số liều thuốc sốt rét sử dụng lên đến 12.627 liều, trong đó điều trị BNSR 2.805 liều và điều trị nguy cơ 9822 liều !important; công tác phòng chống vectơ được đẩy mạnh bằng biện pháp phun tồn lưu hóa chất bảo vệ cho 100% dân số huyện (22.483 người, 4506 nhà) vào tháng 3-4/2005 (đợt I) và 45% dân số vùng có nguy cơ cao (10.272 người, 2031 nhà) vào tháng 7-8/2005 (đợt II); việc giám sát bệnh nhân được duy trì thường xuyên với số lam xét nghiệm tới 17.690 lam, nhằm phát hiện và điều trị sớm KSTSR ngay từ cơ sở. Các biện pháp chuyên môn PCSR được thực hiện dưới sự chỉ đạo và giám sát chặt chẽ của Trung tâm PCSR tỉnh và TTYT huyện. Vấn đề đặt ra là tại sao với tất cả những nỗ lực và đầu tư phòng chống sốt rét tích cực như vậy tình hình sốt rét ở đây vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể ?
Để làm rõ hơn về vấn đề này, trong tháng 9/2005 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, TTPCSR tỉnh Quảng Nam và TTYT huyện Nam Trà My đã điều tra khảo sát một số yếu tố dịch tễ liên quan tại hai xã có diễn biến sốt rét phức tạp là Trà Dơn và Trà Cang, làm cơ sở rút ra một số nhận định:
Chỉ số nhiễm bệnh sốt rét cao:
Điểm lại tình hình sốt rét 9 tháng/2005 qua số liệu thống kê của huyện, BNSR tại Trà Dơn cao nhất vào tháng 3/2005 là 86 bệnh nhân (14 trường hợp phát hiện tại Trạm y tế xã, 72 trường hợp phát hiện qua các đợt giám sát chủ động của Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và TTPCSR tỉnh) !important; từ tháng 4-9/2005, BNSR vẫn chưa có xu hướng giảm, tỷ lệ KSTSR chiếm 10% so với tổng số lam xét nghiệm. Trong khi đó tại Trà Cang có đặc điểm địa hình phức tạp hơn thì số BNSR được phát hiện tại Trạm y tế xã 9 tháng/2005 chỉ có 64 trường hợp, tỷ lệ KSTSR chiếm 0,98% thấp hơn hẳn so với Trà Dơn?
Kết quả điều tra dịch tễ của Viện trong tháng 9/2005 qua 418 người được khám tại Trà Dơn thấy tỷ lệ SRLS 1,67% !important; KSTSR 4,07% (giao bào 3,11%); tỷ lệ lách sưng 1,44% và 314 người được khám tại xã Trà Cang tỷ lệ SRLS 4,46%; tỷ lệ KSTSR 7,96% (giao bào 2,87%); tỷ lệ lách sưng 2,23% lại cao hơn Trà Dơn. Những kết quả trái ngược về số liệu điều tra dịch tễ tại hai xã Trà Dơn và Trà Cang và số liệu thống kê sốt rét của huyệnkhiến chúng ta phải nghĩ đến đến khả năng phát hiện bệnh của nhân viên y tế cơ sở cũng như độ tin cậy qua số liệu báo cáo tại địa phương chưa phản ánh đúng thực trạng tình hình sốt rét ?
 |
 |
Nhà ở của đồng bào dân tộc thiểu số huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam |
Khó khăn về quản lý và điều trị: Địa bàn và phân bố dân cư ở Nam Trà My rất phức tạp và khó quản lý. xã Trà Dơn gồm 6 thôn (40 nóc) và 2926 người (80% dân tộc Cà Dong), xã Trà Cang có 7 thôn (34 nóc) và 3461 người (100% dân tộc Xê Đăng) !important; mặc dù mỗi Trạm y tế xã có 3-4 người, mỗi thôn có một nhân viên y tế được đào tạo 2- 3 tháng đang hoạt động, nhưng số lượng cán bộ y tế này không đảm bảo cho việc kiểm soát BNSR đến từng nóc và từng hộ gia đình trong điều kiện giao thông đi lại từ xã xuống các thôn; từ thôn xuống các nóc hầu như phải đi bộ hoặc trèo đèo, lội suối từ 2-3 giờ. Điểm kính hiển vi xã không hoạt động vì thiếu xét nghiệm viên (Trà Dơn) hoặc hiệu quả hoạt động chưa cao (Trà Cang), chưa đáp ứng yêu cầu phát hiện mầm bệnh tại cộng đồng.
Khó khăn về truyền thông giáo dục và xã hội hoá phòng chống sốt rét:
Đánh giá sự hiểu biết của cộng đồng trong phòng chống sốt rét (KAP) qua phỏng vấn 50 chủ hộ gia đình đại diện cho một điểm điều tra tại mỗi xã bằng bộ câu hỏi in sẵn, thấy 56-64% người biết chương trình PCSR (qua nhân viên y tế 42-46%%, tranh ảnh tuyên truyền 10-12%), 78-86% người mắc sốt rét (mắc ³ 2 lần 44-62%), 84% người khi bị sốt đến cơ sở y tế, 54% biết nguyên nhân gây bệnh sốt rét và 74% biết sử dụng màn để phòng chống sốt rét.
Tuy nhiên, truyền thông giáo dục cho cộng đồng dân tộc thiểu số ở đây vẫn còn nhiều trở ngại do trình độ dân trí thấp, khó khăn trong việc lựa chọn kênh truyền thông, các ban ngành đã có tham gia công tác xã hội hoá tại huyện này nhưng hiệu quả mang lại chưa thật sự cao.
Khó khăn về phòng chống vectơ:
Qua quan sát màn và thói quen nằm màn của 60 hộ gia đình, 406 khẩu ở 2 xã Trà Dơn và Trà Cang thấy chỉ số màn có trong dân tại xã Trà Dơn 5,84 người/màn, xã Trà Cang 7,30 người/màn chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ theo quy định !important; tỷ lệ người nằm màn cũng quá thấp xã Trà Dơn 27,81 và xã Trà Cang 21,00%. Do số lượng màn có trong dân cũng như tỷ lệ người ngủ màn thấp nên huyện Nam Trà My không áp dụng biện pháp tẩm màn, mà chỉ tập trung phun tồn lưu bằng hóa chất. Điều tra côn trùng bắt được 9 loài muỗi anopheles với 41 cá thể, trong đó có muỗi truyền bệnh chính An.minimus bằng phương pháp mồi người trong nhà mật độ 0,04 con/gìơ/người (1 con), bẫy đèn trong nhà mật độ 0,50 con/đèn/đêm (2 con). Muỗi hoạt động từ tối đến nửa đêm, mật độ bắt được thấp (0,33 con/giờ/người), bắt được An.minimus bằng phương pháp mồi người trong nhà mật độ 0,33 con/giờ/người (1 con).
Mặc dù số nhà dân được phun hoá chất tồn lưu diệt muỗi đạt tỷ lệ cao: 100% đợt I và 45% đợt II, nhưng hiệu quả bảo vệ cần phải xem xét lại. Tại huyện này, cấu trúc nhà cửa của người đồng bào thiểu số thô sơ, tập quán ngủ màn rất thấp (21%-27,81%) nên việc tìm giải pháp phòng chống muỗi không thể đạt hiệu quả cao được. Hơn nữa việc phun hoá chất bảo vệ cho cộng đồng tại chỗ trong khi người dân lại có tập quán ngủ rẫy, một số đi rừng và ngủ trong rừng, nên hiệu quả bảo vệ thật sự là không có.
Từ những nhận định trên trong thời gian tới cần tiếp tục tăng cường chủ, động giám sát tại các vùng trọng điểm, kịp thời phát hiện những điểm nóng, những điểm sốt rét gia tăng để báo cáo và có biện pháp khống chế không để dịch sốt rét xẩy ra. Quản lý và điều trị cho những BNSR, những người mang KSTSR, chú ý điều trị triệt căn và điều trị chống lây lan theo đúng phát đồ của bộ Y tế. Tích cực công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ cho người dân, tạo cho người dân có thói quen ngủ màn để phòng chống sốt rét. Giải pháp cụ thể được ưu tiên lựa chọn như sau:
 |
 |
| Đường giao thông đến thôn/ nóc ởhuyện Nam Trà My |
Về điều trị bệnh nhân:
đăng ký Bộ Y tế nghiên cứu ứng dụng phác đồ điều trị thuốc mới (Dihydroartemisinine+piperraquine) kết hợp với thuốc primaquine để diệt giao bào chống lây lan và làm sạch mầm bệnh tại địa phương, để cắt đường lan truyền qua muỗi sốt rét. Giải pháp này sẽ có sự hợp tác nghiên cứu giữa Viện lâm sàng nhiệt đới trung y dược Quảng Châu (Trung Quốc) và Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn.
Về quản lý bệnh nhân: xây dựng màng lưới y tế nóc, trực tiếp quản lý sốt rét tại nhà. Giải pháp này sẽ bao gồm các bước: Lựa chọn cán bộ, đào tạo y tế nóc về phòng chống sốt rét và triển khai thực hiện.
Về phòng chống vectơ: do cấu trúc nhà cửa sơ sài nếu áp dụng biện pháp phun tồn lưu hóa chất hoàn toàn sẽ không đạt hiệu quả bảo vệ, nên một số xã sẽ được lựa chọn chuyển sang sử dụng màn tẩm.
Về truyền thông giáo dục và xã hội hoá : tổ chức hội nghị xã hội hoá phòng chống sốt rét để lựa chọn hình thức, phương tiện, kênh truyền thông cho phù hợp với tình hình của địa phương.
Về biện pháp chính quyền: huyện Nam Trà My nên có kế hoạch quy hoạch tập trung dân cư theo từng thôn thay vì đơn vị nóc như hiện nay, để người dân vừa có điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế, vừa hạn chế khả năng hủy hoại môi trường sinh thái tại địa phương.
Ngày 13/10/2005
TS. Triệu Nguyên Trung