(Tiếp theo Phần 4)
Tỷ lệ nhiễm Plasmodium cynomolgi ở người
Mặc dù loài P. cynomolgi chủ yếu lây nhiễm cho các loài linh trưởng không phải người, đặc biệt là khỉ đuôi dài, nhưng ngày càng có nhiều báo cáo về các trường hợp nhiễm ở người tại Đông Nam Á (Hình 11). Bên cạnh đó, một số trường hợp có thể không có triệu chứng; bằng chứng là một nghiên cứu ở Malaysia, trong đó các mẫu máu thu thập được từ cộng đồng thổ dân có kết quả xét nghiệm dương tính với nhiều loài KSTSR, gồm P. cynomolgi, P. inui và các loài khác. Các báo cáo về trường hợp nhiễm từ động vật này tương đối ít và lẻ tẻ so với sốt rét P. knowlesi và các loài KSTSR khác lây nhiễm cho người trong khu vực này, như P. falciparum và P. vivax. Dù các trường hợp nhiễm P. cynomolgi ở người tương đối lẻ tẻ hay rải rác (Bảng 7), nhưng chúng đại diện cho một khía cạnh quan trọng của dịch tễ học sốt rét và làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục giám sát để hiểu rõ hơn về tình trạng phổ biến của căn bệnh lây truyền từ động vật này ở người.
P. knowlesi đã được báo cáo ở nhiều du khách nước ngoài từ nhiều quốc gia khác nhau, cho đến nay chỉ có một trường hợp P. cynomolgi được báo cáo ở một du khách Đan Mạch đến thăm Malaysia và Thái Lan.
Hình 11. Phân bố địa lý của nhiễm trùng P. cynomolgi tự nhiên ở người.
Trên thực tế, P. cynomolgi là loài ký sinh trùng sốt rét từ linh trưởng đầu tiên lây nhiễm cho người trong phòng thí nghiệm. Tỷ lệ mắc sốt rét lây truyền từ động vật do P. cynomolgi gây ra ngày càng tăng, cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như nạn phá rừng và quá trình đô thị hóa. Các hoạt động của con người làm tăng tỷ lệ mắc sốt rét lây truyền từ động vật trong quần thể người. Việc phá rừng để mở rộng diện tích canh tác, khai thác gỗ hoặc phát triển đô thị đã phá vỡ môi trường sống tự nhiên của loài khỉ, buộc chúng phải kiếm ăn gần bìa rừng và các ngôi làng gần đó. Điều này khiến con người tiếp xúc gần với khỉ hơn, làm tăng khả năng lây truyền sốt rét từ động vật khi có véc tơ truyền bệnh phù hợp.
Điều này đã được chứng minh trong các nghiên cứu gần đây, trong đó P. cynomolgi và P. inui là những KSTSR chủ yếu được tìm thấy ở khỉ và muỗi. Do đó, việc mất đi lớp bao phủ rừng ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ sinh thái và có thể gián tiếp góp phần vào sự lây lan bệnh sốt rét truyền từ động vật, gây ra những rủi ro đáng kể cho sức khỏe cộng đồng. Ngoài ra, nạn phá rừng có thể làm thay đổi vi khí hậu tại địa phương, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự sinh sôi của muỗi. Do đó, muỗi sẽ có nhiều địa điểm sinh sản hơn trong môi trường mới, dẫn đến mật độ quần thể cao hơn, tăng khả năng lây truyền KSTSR từ linh trưởng sang người.
Hình 12. Số ca nhiễm P. cynomolgi tự nhiên ở người được phân loại theo sự phân bố
đồng đều trong các năm lấy mẫu (a) và theo năm xuất bản bài báo (b)
Những người làm việc trong rừng hoặc sinh sống gần khu vực bìa rừng đối mặt với nguy cơ cao bị nhiễm KSTSR từ linh trưởng không phải người (NHP_Non-human primates) do khả năng lây truyền của P. cynomolgi thông qua muỗi Anopheles, loài trung gian phổ biến ở những khu vực này. Khỉ đuôi dài, một loài linh trưởng thích nghi tốt với môi trường bị thay đổi bởi con người, trở thành loài NHP phổ biến nhất mà con người thường tiếp xúc ở các khu vực này. Sự hiện diện của vật chủ phù hợp như khỉ và các loài muỗi có khả năng truyền bệnh làm gia tăng nguy cơ nhiễm sốt rét NHP đối với những người sống gần rìa rừng hoặc tham gia các hoạt động liên quan rừng. Chẳng hạn tại Thái Lan, một báo cáo ghi nhận 03 bệnh nhân nhiễm P. cynomolgi, 2 người làm nông nghiệp và 1 người làm trong quân đội, tất cả đều có hoạt động gần khu vực rừng.
Nhiễm P. cynomolgi đặt ra mối đe dọa đối với an toàn nghề nghiệp và sức khỏe cộng đồng, vì các ca nhiễm có thể gây ra các triệu chứng đau đầu, chán ăn, đau cơ và buồn nôn. Các triệu chứng tương tự như các triệu chứng của loài KSTSR khác. Dù vậy, mức độ nghiêm trọng nhiễm P. cynomolgi ở người vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Để giảm thiểu nguy cơ, cần tăng cường các biện pháp bảo vệ cho những người làm việc hoặc sinh sống gần khu vực rừng, bao gồm sử dụng màn chống muỗi, thuốc xua côn trùng và nâng cao nhận thức về nguy cơ sốt rét NHP. Đồng thời, cần đẩy mạnh nghiên cứu về đặc điểm sinh học, cơ chế lây truyền và khả năng tái phát của P. cynomolgi ở người để phát triển các chiến lược chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa hiệu quả hơn. Những nỗ lực này không chỉ bảo vệ sức khỏe cộng đồng mà còn đảm bảo an toàn cho người làm việc trong môi trường có nguy cơ cao, góp phần kiểm soát và giảm thiểu tác động sốt rét lây truyền từ động vật sang người.
Bảng 7. Tổng hợp các nghiên cứu về nhiễm P. cynomolgi ở người
| Thời gian nghiên cứu | Loại nghiên cứu | Mẫu sàng lọc | Tổng số nhiễm P. cynomolgi | Đơn nhiễm | Nhiễm phối hợp | Quốc gia | Địa điểm |
| - | Ngẫu nhiên và thử nghiệm | - | 4 | 4 | 0 | Mỹ | Viện Dị ứng và bệnh truyền nhiễm Quốc gia, Bethesda, Maryland |
| 1960 | Ngẫu nhiên và thử nghiệm | - | 3 | 3 | 0 | Mỹ | BV Christ, Viện Nghiên cứu y khoa, Cincinnati, Ohio |
| - | Thử nghiệm | - | 12 | 12 | 0 | - | - |
| - | Thử nghiệm | - | 5 | 5 | 0 | Mỹ | Viện Dị ứng và bệnh truyền nhiễm Quốc gia, Bethesda, Maryland |
| 1962-1963 | Thử nghiệm | - | 1 | 1 | 0 | Campuchia và Mỹ | Viện Nghiên cứu y khoa, Kuala Lumpur |
| - | Ngẫu nhiên | - | 1 | 1 | 0 | Mỹ | Đại học New York, Khoa Y |
| - | Thử nghiệm | – | 1 | 0 | 1 | Mỹ | Viện Dị ứng và bệnh truyền nhiễm Quốc gia, Bethesda, Maryland |
| 1977- 1979 | Ngẫu nhiên | – | 2 | 2 | 0 | Pháp | BV Pitié-Salpêtrière, Paris |
| - | Ngẫu nhiên | – | 1 | 1 | 0 | - | - |
| 2007 - | Giám sát | 144 | 1 | 0 | 1 | Thái Lan | Chanthaburi |
| 2018 | Giám sát | 192 | 1 | 0 | 1 | Thái Lan | Narathiwat |
| 192 | 1 | 0 | 1 | Thái Lan | Tak |
| 239 | 1 | 0 | 1 | Thái Lan | Ubon Ratchathani |
| 592 | 5 | 0 | 5 | Thái Lan | Yala |
| 2007-2018 | Giám sát | 358 | 2 | 0 | 2 | Thái Lan | Chanthaburi |
| 152 | 1 | 0 | 1 | Thái Lan | Narathiwat |
| 923 | 1 | 0 | 1 | Thái Lan | Tak |
| 639 | 3 | 0 | 3 | Thái Lan | Ubon Ratchathani |
| 2123 | 14 | 2 | 12 | Thái Lan | Yala |
| 2011–2016 | Giám sát | 55 | 5 | 5 | 0 | Malaysia | Perak |
| 13 | 2 | 2 | 0 | Malaysia | Negeri Sembilan |
| 13 | 1 | 1 | 0 | Malaysia | Melaka |
| 9 | 1 | 1 | 0 | Malaysia | Gua Musang, Kelantan |
| 2011 | Báo cáo ca bệnh | - | 1 | 1 | 0 | Malaysia | Hulu Terengganu, Terengganu |
| 2013-2017 | Giám sát | 1047 | 6 | 0 | 6 | Malaysia | Kapit, Sarawak |
| 2015-2016 | Giám sát | 7320 | 13 | 11 | 2 | Campuchia | Battambang |
| 2018 | Báo cáo ca bệnh | – | 1 | 1 | 0 | Malaysia | Tanah Merah, Kelantan |
| 2018 | Báo cáo ca bệnh, nhập khẩu | – | 1 | 1 | 0 | Thái Lan Malaysia | Vị trí hay địa điểm khác nhau |
| 2021 | Báo cáo ca bệnh | – | 3 | 2 | 1 | Thái Lan | Yala |
(Còn nữa) --> Tiếp theo Phần 6
Ths.Bs. Nguyễn Công Trung Dũng & TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn