Trong số 5 loài ký sinh trùng sốt rét ở người, hai loài P. falciparum, P. vivax có tỷ lệ lưu hành cao nhất trên toàn cầu, trong khi đó các loài còn lại P. malariae, P. ovale curtisi và P. ovale wallikeri chiếm tỷ lệ thấp hơn và đặc biệt một số nơi xảy ra nhiễm phối hợp. Loài P. knowlesi, trước đây được xem là trên linh trưởng không phải người (non-human primate_NHP), giờ đây đã gây sốt rét ở người tại Malaysia và một số quốc gia khác. Các loài NHP Plasmodium khác, gồm P. cynomolgi, P. brasilianum, P. inui, P. simium, P. coatneyi và P. fieldi gây sốt rét trên các loài linh trưởng, điều này được báo cáo chủ yếu ở Đông Nam Á và Nam Mỹ. Các loài Plasmodium không phải ở người và cũng không phải P. knowlesi cũng đang nổi lên và tìm thấy lây truyền chéo (cross-transmit) từ các vật chủ tự nhiên của chúng sang người trong điều kiện tự nhiên qua nhiều báo cáo y văn kể từ năm 2010 trở về sau này. Các dữ liệu này bước đầu mô tả rằng (1) Phần lớn các loài non- P. knowlesi nhiễm phối hợp trên các vật chủ không phải người đang lây nhiễm sang người từ tỉnh Yala, Thái Lan; (2) Nhiễm đơn thuần hay phối hợp P. cynomolgi với các loài Plasmodium khác đang lây nhiễm cho người đang lưu hành phổ biến tại Malaysia và Thái Lan và (3) P. brasilianum và P. simium tìm thấy ở khu vực Trung và Nam Mỹ.
Tỷ lệ lưu hành P. cynomolgi ở quần thể người rất thấp (< 0,1%). Tỷ lệ nhiễm P. cynomolgi ở người cao nhất được chứng minh và phát hiện ở phía Bắc bang Sabah, Malaysia (4%; 95%CI: 1-13%). Một nghiên cứu được tiến hành tại Thái Lan, khi sàng lọc 1.359 mẫu máu lấy từ những bệnh nhân sốt tại các phòng khám và bệnh viện địa phương tại 5 tỉnh của Thái Lan: Tak (n=192, trong giai đoạn 2007-2013), Ubon Ratchathani (n=239, trong giai đoạn 2014-2016), Chanthaburi (n=144, trong giai đoạn 2009), Yala (n=592, trong giai đoạn 2008-2018) và Narathiwat (n=192, trong giai đoạn 2008-2010). Kết quả soi kính hiển vi đã tìm thấy 1.152 trường hợp sốt rét do P. vivax (869 bệnh nhân; 75,43%), P. falciparum (272 bệnh nhân; 23,61%) hoặc đồng nhiễm cả hai loài (11 bệnh nhân; 0,96%).
Sử dụng PCR lồng nhắm mục tiêu vào gen Cytochrome b ty thể (mtCytb) của 5 loài ký sinh trùng sốt rét ở người. Kết quả đã phát hiện P. cynomolgi ở 9 bệnh nhân, tất cả đều bị đồng nhiễm với P. vivax (n = 7), P. falciparum (n = 1), hoặc cả P. vivax và P. knowlesi (n =1). Tỷ lệ lưu hành chung của các ca nhiễm P. cynomolgi là 0,76%. Các bệnh nhân bị nhiễm P. cynomolgi được tìm thấy ở tất cả các tỉnh. Mặc dù 5 trong số những bệnh nhân này đến từ tỉnh Yala, tỷ lệ nhiễm P. cynomolgi trong số các ca sốt rét ở mỗi vùng lưu hành (0,52-0,87%) là tương đương nhau.
Hình 14. Kết quả phân tích gộp tỷ lệ nhiễm P. cynomolgi tại khu vực Đông Nam Á
Một nghiên cứu khác được thực hiện ở phía Tây Campuchia theo một Dự án từ năm 2013-2016 với tổng số mẫu thu được là 14732 (7320 từ Battambang và 7412 từ Pailin), kết quả xét nghiệm bằng PCR siêu nhạy (uPCR) chỉ ra có 1361 (9,2%; 663 từ Battambang và 698 từ Pailin) có chứa DNA ký sinh trùng sốt rét. Trong số này, DNA trong 1.125 mẫu có thể được xác định đến cấp độ loài: P. falciparum được phát hiện trong 114 mẫu (10,1%), P. vivax được phát hiện trong 976 mẫu (86,8%) và cả hai loài đều được phát hiện trong 14 mẫu (1,2%).
Trong đợt thử nghiệm đầu tiên đối với các loài P. vivax, áp dụng kỹ thuật PCR thời gian thực ít nhạy cảm và đặc hiệu hơn, 853 mẫu được phát hiện có chứa DNA loài P. vivax. Tuy nhiên, do có 98% sự tương đồng giữa các gen mã hóa RNA 18S của P. vivax và P. cynomolgi, làm tăng khả năng nhận dạng sai, sau đó nhóm nghiên cứu cũng đã kiểm tra lại cùng một bộ mẫu, sử dụng giao thức PCR lồng ghép và giải trình tự trên linh trưởng cụ thể. Ba trong số 853 mẫu (0,3%) ban đầu được xác định là chứa P. vivax, thực chất chỉ chứa P. cynomolgi.
Hình 13. Phân bố tỷ lệ nhiễm P. cynomolgi ở người, khỉ và muỗi tại Đông Nam Á
Nhiễm trùng P. cynomolgi ở người không triệu chứng
Các nghiên cứu khác về bệnh nhân nhiễm P. cynomolgi cho thấy hầu hết người bị nhiễm đều không có triệu chứng, chỉ một số ít có triệu chứng nhẹ. Nhiễm P. cynomolgi ở người thường có mật độ KSTSR dưới ngưỡng phát hiện kính hiển vi (KHV). Do mức độ nghiêm trọng của sốt rét do P. cynomolgi và sự tương đồng về mặt hình thái với P. vivax khiến việc xác định loài chính xác bằng KHV trở nên khó khăn, nên có thể thực tế tỷ lệ mắc bệnh thực sự của P. cynomolgi có thể cao hơn đáng kể so với mức hiện tại.
Trên thực tế, nhiều bệnh nhân trong các nghiên cứu bị nhiễm P. cynomolgi sẽ được chẩn đoán nhầm là nhiễm P. vivax nếu chỉ sử dụng kính hiển vi hoặc xét nghiệm chẩn đoán nhanh (RDTs), mà không bao giờ sử dụng các phương pháp phân tử.
Các thí nghiệm in vivo từ những năm 1970 cho thấy nhiễm P. cynomolgi ở người thường có mật độ ký sinh trùng thấp và có khả năng tự khỏi. Một nghiên cứu ex vivo trước đây chỉ ra rằng chủng P. cynomolgi B/M ưu thế xâm nhập vào hồng cầu lưới khi ký sinh trùng sốt rét được tiếp xúc với hồng cầu người. Hơn nữa, trong trường hợp nhiễm P. vivax, nghiên cứu đã chỉ ra rằng phần lớn KSTSR ẩn cư trong các mô tạo máu ngoài mạch máu (như tủy xương, lách và gan), dẫn đến việc mật độ KSTSR trong máu ngoại vi không phản ánh chính xác tổng tải lượng KSTSR thể vô tính trong cơ thể.
Tuy nhiên, hiện tượng này vẫn chưa được xác nhận ở các ca nhiễm P. cynomolgi ở người. Do đó, khả năng “tích tụ” KSTSR trong các mô ngoài mạch máu và sự ưu tiên xâm nhập hồng cầu lưới của P. cynomolgi có thể dẫn đến mật độ KSTSR trong máu ngoại vi thấp, làm tăng nguy cơ các ca nhiễm không được phát hiện. Điều này khiến các phương pháp chẩn đoán truyền thống như soi KHV thường không phát hiện được KSTSR nếu mật độ nằm dưới ngưỡng phát hiện KHV. Tuy nhiên, cơ chế xâm nhập của P. cynomolgi vào hồng cầu người hiện vẫn chưa được hiểu rõ. Các nghiên cứu trước đây cho thấy ký sinh trùng P. cynomolgi không có sự ưu tiên về độ tuổi của hồng cầu khi xâm nhập vào hồng cầu của khỉ Macaca mulatta, nhưng lại có xu hướng xâm nhập mạnh vào hồng cầu lưới khi tiếp xúc với hồng cầu người. Sự khác biệt trong ưu tiên tế bào vật chủ này có thể là một trong những lý do khiến tỷ lệ nhiễm P. cynomolgi cao hơn ở khỉ so với ở người. Tuy nhiên, nguyên nhân tại sao P. cynomolgi thường gây nhiễm trùng không triệu chứng ở người vẫn chưa được làm sáng tỏ và sự ưu tiên tế bào vật chủ khác biệt có thể là một yếu tố góp phần. Để hiểu rõ hơn, cần thêm các nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm sinh học và cơ chế xâm nhập của P. cynomolgi, nhằm làm sáng tỏ vai trò của nó trong dịch tễ học và cải thiện khả năng chẩn đoán, từ đó hỗ trợ công tác kiểm soát bệnh sốt rét lây truyền từ động vật sang người.
Trong nghiên cứu tại Campuchia, tổng cộng 11 ca đơn nhiễm P. cynomolgi được phát hiện ở những cư dân không có sốt và không triệu chứng từ 5 ngôi làng nằm gần khu rừng. Tất cả đều là nam, tuổi trung bình 28 (7-64 tuổi). 5 ngôi làng Chakrya, Ou Treng, Tik Mong, Veal Roleum, Phnom Rey, ở Battambang và Krong Pailin, ở Pailin phía Tây Campuchia. Mật độ KSTSR trung bình là 3.604 KST/mL (578-26.923 KST/mL). Nhiễm phối hợp với P. cynomolgi và P. vivax được phát hiện ở 2 người sau đó. Do đó, tỷ lệ nhiễm trùng P. cynomolgi ở người không triệu chứng nói chung là khoảng 2 ca trên 1000 người. P. cynomolgi chiếm khoảng 1% số KSTSR được phân lập. 2 người đã phát hiện có tái nhiễm P. cynomolgi được xác định khoảng 3 tháng sau khi xác định từ ban đầu ở Charkrya và Ou Treng. Trường hợp một, các KSTSR khác biệt về mặt di truyền đã được xác định và trong trường hợp hai, các ký sinh trùng giữa hai đợt nhiễm có liên quan, chúng có nguồn gốc từ cùng một loại muỗi. Tuy nhiên không thể xác định chắc chắn liệu đây là tái phát, tái nhiễm hay nhiễm trùng dai dẳng.
Mục tiêu quản lý sốt rét là làm thế nào giảm ngay các nguy cơ cho vật chủ, làm cho mật độ KSTSR thể vô tính thấp hơn trong máu, tránh tái phát xa thông qua diệt thể ngủ và ngăn sự lan truyền bệnh đến các quần thể khác trong cộng đồng. Cả P. vivax và P. cynomolgi đều sinh thể ngủ trong gan, nên cần bỏ sung một lớp điều trị nữa cho các bệnh nhân này, vì chúng có thể gây nguy cơ nhiễm trùng gây tái phát kể từ lần nhiễm đầu tiên. Hiện tại, không có thuốc nào đơn thuần để loại trừ P. vivax hay P. cynomolgi. Do đó, người ta khuyên dùng liệu pháp phối hợp liên quan đến sử dụng phối hợp primaquine. Hiện nay, chưa có thử nghiệm lâm sàng nào về điều trị sốt rét do P. cynomolgi nhiễm tự nhiên ở người do hiếm ca bệnh, nên tiếp cận logic nhất là điều trị nhiễm P. cynomolgi ở người nên dựa vào cách điều trị cả nhóm loài với P. vivax.
Khoảng trống kiến thức và định hướng nghiên cứu tương lai
Nhiễm trùng ở người với loài P. cynomolgi đang dần trở thành phần đề y tế công cộng, đồng thời cũng dấy lên nhiều thách thức. Thách thức đầu tiên và khoảng trống chủ yếu là trong chẩn đoán loài KSTSR này vì gần như chúng bị chẩn đoán nhầm do tính tương tự về hình thái với P. vivax khi soi dưới KHV tại các cơ sở y tế và các trung tâm hay la bô tham chiếu ở các nước Đông Nam Á và thiếu kiến thức về loài này khi đối mặt với nó. Phát hiện dưới KHV đối với loài P. cynomolgi vẫn còn là vấn đề thách thức vì nhiễm trùng P. cynomolgi có thể có mật độ thấp dưới ngưỡng KHV. Do đó, việc tập huấn làm sao cho xét nghiệm viêm nhanh chóng nhận ra điểm đặc biệt của loài P. cynomolgi là cần thiết.
Các phương pháp phân tử cũng cần thiết để khắc phục các nhược điểm khi phát hiện chúng trên KHV với loài P. cynomolgi. Gen 18S rRNA thường được sử dụng như đích trong các đề cương phương pháp PCR định lượng và PCR lồng đối với các loài Plasmodium spp., nhưng do tính tương đồng cao của các gen 18S rRNA của P. cynomolgi, P. vivax, P. knowlesi, P. malariae có thể dẫn đến dương tính giả như đã từng gặp ở Malaysia, Campuchia và French Guiana.
Một giải pháp cho vấn đề cần tiếp cận đích ít nhất 2 gen nhân và ty thể như cyt-b, COXI và msp142, và phân tích thêm, kể cả giải trình tự, phân tích cây phả hệ di truyền (phylogenetic analyses) và ngoại kiểm tra chéo. Các thách thức này liên quan đến chẩn đoán KHV và chẩn đoán phân tử giải thích rõ các khó khăn trong việc ước tính gánh nặng thật sự nhiễm P. cynomolgy ở người. Ngoài ra, các nhà lâm sàng đang công tác tại các vùng lưu hành bệnh ở Đông Nam Á liệu có để ý đến sốt rét P. cynomolgy và điều trị nó để quản lý tốt hơn. Như một bệnh ký sinh trùng đang nổi ở người, có thể các nhà lâm sàng không có kiến thức về sốt rét tái phát do P. cynomolgy và các nhà lâm sàng nên biết để kê đơn hợp lý thuốc PQ liên quan với liệu trình thuốc ưu tiên.
Thiếu các bằng chứng về lưu hành tự nhiên của loài P. cynomolgy và các KSTSR ở các loài linh trưởng trên người tại Mỹ Latin, Tây Á và sSA có thể do thiếu các nghiên cứu về sự lan truyền từ động vật truyền sang người của các Plasmodium spp. tại các vùng này. Trong kỷ nguyên này của sự toàn cầu hóa do sự di chuyển của con người, giám sát sốt rét từ động vật truyền sang người là một việc quan trọng và cần thiết để thúc đẩy nhanh mục tiêu phòng chống và loại trừ sốt rét. Điều này còn đón vai trò tốt hơn trong việc giám sát các trường hợp sốt rét nhập khẩu hay ngoại lai tại các nước - nơi mà ở đó công tác LTSR đã thành công.
Vùng Đông Nam Á, đặc biệt ở Thái Lan, Malaysia và Campuchia, dường như là ổ chứa duy nhất của nhiễm trùng loài P. cynomolgi ở người dựa trên các dữ liệu hiện có. Điều rõ ràng là sốt rét truyền từ động vật sang người bởi loài P. cynomolgi được hình thành có thể từ nhiều yếu tố: Sự tiếp xúc hay phơi nhiễm gần gũi giữa khỉ (vật chủ có xương sống tự nhiên), muỗi (vật chủ không xương sống) và con người (vật chủ có xương sống tình cờ). Mối liên quan này giữa khỉ, muỗi và con người là then chốt cho sự xuất hiện và lan rộng loài P. cynomolgi trên người. Sự mở rộng các hoạt động của con người với các hoạt đông nhân tạo như nạn phá rừng và lâm nghiệp, biến đổi khí hậu có thể dẫn đến bùng phát, qua đó làm tăng cơ hội cho KSTSR ở khỉ lớn dần lên trong “phổ vật chủ” của chúng thông qua sự xuất hiện quần thể người tại chỗ từ các quốc gia này, như đã từng nhìn thấy đối với loài P. knowlesi và các tác nhân đang nổi khác.
Khả năng như thế xâm nhập vào con người cũng do liên quan đến sự xuất hiện các vector muỗi ưa đốt người và đủ năng lực gây nhiễm. Một số yếu tố liên quan đến sinh thái học (bionomics), khả năng vector và đủ số loài Anopheles spp. cũng như ký sinh trùng P. cynomolgi và vật chủ khỉ cũng rất quan trọng. Về bằng chứng, tỷ lệ hiện mắc và phân bố có thể ước tính thấp hơn dữ liệu chúng ta nhìn thấy. Điều quan trọng giờ đây cần tiếp cận một số câu hỏi để trong tương lai phải giải quyết (i) Nếu lan truyền từ động vật sang người của loài P. cynomolgi có lợi và hại gì cho chúng ta? ii) Động lực nhiễm P. cynomolgi như thế nào và lịch sử tự nhiên bị ảnh hưởng như thế nào khi nhiễm phối hợp với các loài P. falciparum và P. vivax? (iii) Phạm vi mở rộng của nhiễm loài P. cynomolgi ở người tại Đông Nam Á ở mức độ nào?
Cả vùng Nam Á và Mỹ Latin không chỉ có sự đa dạng về khu hệ rừng núi và các loài linh trưởng không phải người (non-human primates) cao nhất trên thế giới, mà còn có tính đa dạng về quần thể và khu hệ loài Anopheles spp. Tại vùng Tây Á, sự đa dạng các linh trưởng cũng cao với nhiều vùng rừng khác nhau. Một số loài muỗi Anopheles như An. freeborni và An. stephensi nằm trong số các vector sốt rét chính tại Bắc Mỹ và Tây Á, nên cũng có thể muỗi sinh ra các thể thoa trùng của P. cynomolgi và truyền chúng sang cho người trong các nghiên cứu thử nghiệm. Ngoài ra, nguy cơ loài P. cynomolgi lan rộng đến các quốc gia khác cũng có thể do loài An. stephensi có mặt ở một số vùng Châu Phi (Djibouti, Ethiopia). Muỗi An. freeborni và An. stephensi thường ưa đốt cả người và động vật, có tính nhạy cảm với nhiễm P. cynomolgi từ mức độ vừa đến cao và có thể truyền ký sinh trùng thành công sang khỉ trong điều kiện la bô. Do vậy, các loài muỗi này có thể là vector của sốt rét truyền từ động vật sang người như đối với P. cynomolgi tại các vùng mà ở đó các loài muỗi này hiện diện.
Ngoài ra, bản chất tự nhiên, sự phân bố và tính nhạy cảm của quần thể khỉ và các vật chủ không phải là linh trưởng (non-primate hosts) với nhiễm P. cynomolgi ũng là một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra nguy cơ và thiết lập phươn thức lan truyền P. cynomolgi từ động vật sang người. Các bằng chứng chỉ ra đường lan truyền trực tiếp giữa người và vựơn Châu Phi (African apes) cũng như người và khỉ ở Thế giới mới (New World monkeys) đối với cacsloaif KSTSR P. vivax và P. malariae. Châu Phi và Châu Mỹ có tính đa dạng, nhưng dữ liệu về tính lan truyền hiệu quả của P. cynomolgi từ các con khỉ này sang muỗi và người trong các khu vực như thế vẫn còn hạn hữu. Mawch dù các yếu tố ưu thế cho việc lan truyền bệnh sốt rét từ động vật truyền sang người trong vùng này đã được thiết lập, song không có một báo cáo nào về nhiễm trùng tự nhiên với P. cynomolgi ở người ghi nhận ngoài Đông Nam Á đến hiện nay.
Như đã từng nhìn thấy đối với loài P. knowlesi, việc kiểm soát sốt rét P. cynomolgi có thể đang mắc phải một vấn đề khi thiếu đi các chiến lược phòng chống chủ yếu các vector trong rừng và ổ chứa của P. cynomolgi trên các linh trưởng. Các chất xua muỗi, các bẫy mồi dựa vào mùi (odor-based mosquito traps) và các quần áo được tẩm hóa chất cũng đã được đề nghị nhưng bằng chứng về hiệu quả vẫn còn thiếu. Do vậy, cần nghiên cứu thêm về loài P. cynomolgi, đặc biệt về sự phát triển, đánh giá và thực hiện các biện pháp can thiệp tích hợp (phòng chống vector, bảo vệ cá nhân và huy động tham gia cộng đồng, kiểm soát môi trường) để cắt đứt chuỗi lan truyền KSTSR ở khỉ sang người.
Cuối cùng, việc điều trị sốt rét P. cynomolgi vẫn còn là một khoảng trống kiến thức. Không có bằng chứng mạnh về hiệu lực các thuốc sốt rét hiện dùng, ngay cả một số nghiên cứu báo cáo rằng thuốc đã giải quyết các triệu chứng lâm sàng và KSTSR trên loạt bệnh nhân mắc P. cynomolgi được điều trị với atovaquone cộng proguanil sau đó dùng thêm primaquine ở các du khách châu Âu trở về, hay phác đồ artemether cộng lumefantrine sau đó dùng thêm thuốc primaquine trên các bệnh nhân Malaysia và phác đồ chloroquine cộng primaquine hay artesunate cộng mefloquine ở bệnh nhân Thái Lan. Hiện với số ca bệnh báo cáo về nhiễm P. cynomolgi ngày càng tăng và quản lý điều trị với các liệu pháp trên, bằng chứng nhìn chung nhìn thấy đã quản lý được ca bệnh sốt rét không biến chứng và sốt rét ác tính do P. knowlesi.
KẾT LUẬN
P. cynomolgi có cùng vòng đời và một số đặc điểm sinh học quan trọng, như khả năng tạo ra giai đoạn ngủ trong gan và ưu tiên xâm nhập hồng cầu lưới. Gần đây, một số trường hợp nhiễm trùng tự nhiên ở người đã được ghi nhận, khiến P. cynomolgi trở thành một loại sốt rét mới ở người. Các kiến thức hiện tại về dịch tễ học nhiễm tự nhiên loài KSTSR P. cynomolgi ở người, muỗi và khỉ cùng với các đặc điểm sinh học, lâm sàng và mô hình nhạy-kháng thuốc vẫn còn hạn hữu, đồng thời, một bản chụp nhanh về sự xuất hiện các loài KSTSR khác từ khỉ cũng đã được trình bày trên y văn. Ngoài ra, các khoảng trống kiến thức quan trọng và nghiên cứu bổ sung về sốt rét do loài P. cynomolgi ở người hiện tại vẫn đang tiếp tục. Có một số bằng chứng về khả năng loài P. cynomolgi có thể nhiễm một cách tự nhiên ở người, với các ca nhiễm tự nhiên đã được báo cáo từ các quần thể tại chỗ hoặc từ các du khách châu Âu trở về từ các nước Đông Nam Á (Malaysia, Thái Lan, Campuchia). Các đặc điểm lâm sàng về sốt rét do P. cynomolgi bao gồm các triệu chứng từ nhẹ đến vừa, biểu hiện chủ yếu là sốt, rét run trên các ca phát hiện P. cynomolgi trên kính hiển vi và không phát hiện do dưới ngưỡng KHV. Các yếu tố liên quan tương tác phức tạp liên quan đến con người, khỉ (vật chủ có xương sống tự nhiên), muỗi và môi trường thúc đẩy sự xuất hiện loài P. cynomolgi và các loài KSTSR ở khỉ khác (P. brasilianum, P. simium, P. inui) ở trên người trong hoặc ngoài các vùng Đông Nam Á. Tiếc thay, kiến thức của các xét nghiệm viên soi KHV và các nhà lâm sàng nghiên cứu về sốt rét P. cynomolgi vẫn còn ít, qua đó gây nguy hiểm trong chẩn đoán, các phát hiện liên quan nghiên cứu dịch tễ học cũng như quản lý điều trị.
Mặc dù P. cynomolgi hiện chưa được xem là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe con người, song sự xuất hiện ngày càng nhiều các ca nhiễm mới đang đặt ra những thách thức đáng kể cho các cơ quan y tế công cộng trong nỗ lực kiểm soát và loại bỏ các bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người. Việc P. cynomolgi có khả năng lây truyền từ khỉ sang người không thể bị xem nhẹ, đặc biệt khi các báo cáo về các ca nhiễm mới đang gia tăng, làm nổi bật nguy cơ tiềm tàng của các bệnh sốt rét có nguồn gốc từ động vật. Để ứng phó hiệu quả với vấn đề này, cần tăng cường các nghiên cứu và giám sát chuyên sâu, tận dụng các phương pháp phân tử hiện đại như phát triển kỹ thuật phân tích với các đoạn mồi đặc hiệu cho P. cynomolgi và phân tích kiểu gen. Những công cụ này sẽ cung cấp dữ liệu chính xác, kịp thời, hỗ trợ phát hiện sớm và báo cáo các ca bệnh sốt rét truyền nhiễm từ động vật sang người, từ đó cải thiện khả năng ứng phó của hệ thống y tế.
Trong khi không có test chẩn đoán nhanh để chẩn đoán sốt rét ở khỉ, các phương pháp phân tử đủ đặc hiệu đang phát triển để phát hiện P. cynomolgi. Tuy nhiên, tính tương đồng cao của các gen mục tiêu với P. cynomolgi (target genes) với các loài khác vẫn là một thách thức lớn cho lĩnh vực chẩn đoán phân tử do các kết quả dương tính giả. Từ kinh nghiệm nghiên cứu phòng chống đối với loài P. knowlesi, phát triển tích hợp các chiến lược và biện pháp là lý tưởng đối với các cấu phần liên quan đến khía cạnh con người, khỉ, muỗi và môi trường, có thể giúp ngăn ngừa sự xuất hiện sốt rét P. cynomolgi ở người thông qua gián đoạn chuỗi lan truyền từ khỉ sang người và cuối cùng ngăn chặn sự mở rộng các vụ dịch tiềm tàng tại Đông Nam Á.
Hơn nữa, việc nghiên cứu vai trò của muỗi vật trung gian truyền bệnh là một hướng đi quan trọng để hiểu rõ cơ chế lây lan của P. cynomolgi trong tự nhiên. Các nghiên cứu cần tập trung vào việc xác định mức độ phổ biến của ký sinh trùng này trong quần thể muỗi, cũng như đánh giá tác động của nó đối với sức khỏe cộng đồng và các chiến lược kiểm soát bệnh sốt rét. Đồng thời, cần đẩy mạnh nghiên cứu về sinh học của P. cynomolgi, bao gồm khả năng tái phát, tình trạng nhiễm trùng dai dẳng và các trường hợp nhiễm bệnh không triệu chứng. Những yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến đặc điểm dịch tễ học của bệnh, từ việc lây lan trong cộng đồng đến hiệu quả của các biện pháp can thiệp y tế. Ngoài ra, việc nâng cao nhận thức cộng đồng và phối hợp liên ngành giữa các nhà khoa học, chuyên gia y tế và các nhà hoạch định chính sách là cần thiết để xây dựng các chương trình phòng ngừa và kiểm soát hiệu quả. Các chiến lược này không chỉ giúp giảm thiểu nguy cơ từ P. cynomolgi mà còn đóng góp vào việc ngăn chặn sự xuất hiện của các bệnh sốt rét truyền nhiễm từ động vật khác trong tương lai. Bằng cách kết hợp nghiên cứu khoa học, giám sát chặt chẽ và các biện pháp y tế công cộng, chúng ta có thể bảo vệ sức khỏe con người trước những mối đe dọa mới nổi từ các bệnh truyền nhiễm, đồng thời tiến gần hơn đến mục tiêu loại trừ hoàn toàn bệnh sốt rét trên toàn cầu.
(Hết)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. Bykersma, et al. (2021). The new zoonotic malaria: Plasmodium cynomolgi. Trop Med Infect Dis. 6(2).
2. B. Campo, O. Vandal, D. L. Wesche, J. N. Burrows, et al. (2015). Killing the hypnozoite: Drug discovery approaches to prevent relapse in Plasmodium vivax. Pathog Glob Health. 109(3): 107-22.
3. R. Chaturvedi, S. Biswas, K. Bisht A., Sharma, et al. (2023). The threat of increased transmission of non-knowlesi zoonotic malaria in humans: A systematic review. Parasitology. 150(13):1167-1177.
4. V. D. Chinh, et al. (2019). Prevalence of human and non-human primate Plasmodium parasites in anopheline mosquitoes: A cross-sectional epidemiological study in Southern Vietnam. Trop Med Health. 47, 9.
5. T.H. Chua, et al. (2017). Phylogenetic analysis of simian Plasmodium spp. infecting Anopheles balabacensis Baisas in Sabah, Malaysia. PLoS Negl Trop Dis. 11(10): e0005991.
6. A.A. Escalante, M.A. Pacheco, et al. (2019). Malaria molecular epidemiology: An evolutionary genetics perspective. Microbiol Spectr. 7(4).
7. A. S. Gozalo, et al. (2024). Overview of Plasmodium spp. and animal models in malaria research. Comp Med. 74(4):205-230.
8. M. Imwong et al. (2019). Asymptomatic natural human infections with the simian malaria parasites Plasmodium cynomolgi and Plasmodium knowlesi. J Infect Dis. 219(5): 695-702.
9. N.K. Jeyaprakasam, W.K. Phang, S. Shahari, I. Vythilingam (2025). Plasmodium cynomolgi: Potential emergence of new zoonotic malaria in Southeast Asia. Parasit Vectors. 18(1), 151.
10. L.P. Kojom Foko, A. Kumar, J. Hawadak, V. Singh (2023). Plasmodium cynomolgi in humans: Current knowledge and future directions of an emerging zoonotic malaria parasite. Infection. 51(3), 623-640.
11. M. Kotepui, F. R. Masangkay, K. U. Kotepui, G. J. Milanez (2021). Preliminary review on the prevalence, proportion, geographical distribution, and characteristics of naturally acquired Plasmodium cynomolgi infection in mosquitoes, macaques, and humans: A systematic review and meta-analysis. BMC Infect Dis. 21(1), 259.
12. Y. Maeno, et al. (2015). Humans frequently exposed to a range of non-human primate malaria parasite species through the bites of Anopheles dirus mosquitoes in South-Central Vietnam. Parasit Vectors. 8, 376.
13. R. P. Marchand, et al. (2011). Co-infections of Plasmodium knowlesi, P. falciparum, and P. vivax among humans and Anopheles dirus mosquitoes, Southern Vietnam. Emerg Infect Dis. 17(7), 1232-9.
14. F. Muh, et al. (2024). Plasmodium cynomolgi: What should we know? Microorganisms. 12(8).
15. L. S. Murdiyarso et al., (2025). Plasmodium cynomolgi Infections not found in microscopy-diagnosed malaria cases across Sabah, Malaysia. Am J Trop Med Hyg. 112(1):85-88.
16. E. M. Pasini, et al. (2017). An improved Plasmodium cynomolgi genome assembly reveals an unexpected methyltransferase gene expansion", Wellcome Open Res. 2, 42.
17. C. Putaporntip, et al. (2021). Plasmodium cynomolgi Co-infections among Symptomatic Malaria Patients, Thailand. Emerg Infect Dis. 27(2), 590-593.
18. P. Sai-Ngam, et al. (2022). Case series of three malaria patients from Thailand infected with the simian parasite, Plasmodium cynomolgi. Malar J. 21(1), 142.
19. X. Z. Su J. Wu, et al. (2021). Zoonotic transmissions and host switches of malaria parasites. Zoonoses, 1(1).
20. Loick P Kojom Foko, Amit Kumar, Joseph Hawadak, Vineeta Singh (2022). Plasmodium cynomolgi in humans: Current knowledge and future directions of an emerging zoonotic malaria parasite. Infection, 2022 Nov 19;51(3):623-640.
21. Eyles DE. The species of Simian malaria: Taxonomy, morphology, life cycle, and geographical distribution of the monkey species. J Parasitol. 1963;49:866 - 887.
22. Latif ENM, Shahari S, Amir A, Cheong FW, Lau YL, Abdullah ML, et al. Genetic diversity of Duffy binding protein 2 region II of Plasmodium cynomolgi from wild macaques in Peninsular Malaysia. Trop Biomed. 2022;39:66–72.
23. Fungfuang W, Udom C, Tongthainan D, Kadir KA, Singh B. Malaria parasites in macaques in Thailand: stump-tailed macaques (Macaca arctoides) are new natural hosts for Plasmodium knowlesi, Plasmodium inui, Plasmodium coatneyi and Plasmodium fieldi. Malar J. 2020;19:350.
24. Buery JC, de Alencar FEC, de Duarte AMRC, Loss AC, Vicente CR, Ferreira LM, et al. Atlantic forest malaria: A review of more than 20 years of epidemiological investigation. Microorganisms. 2021;9:132.
25. Vanachayangkul P, Im-erbsin R, Tungtaeng A, Kodchakom C, Roth A, Adams J, et al. Safety, pharmacokinetics, and liver-stage Plasmodium cynomolgi effect of high-dose ivermectin and chloroquine in Rhesus macaques. Antimicrob Agents Chemother. 2020; 64:e00741–e820.
26. Nantha Kumar Jeyaprakasam, Wei Kit Phang, Shahhaziq Shahari, Indra Vythilingam (2025). Plasmodium cynomolgi: Potential emergence of new zoonotic malaria in Southeast Asia. Parasites & Vectors, Volume 18, Article number: 151 (2025)
27. Alexander Bykersma et al., (2021). The new zoonotic malaria: Plasmodium cynomolgi. Trop. Med. Infect. Dis. 2021, 6(2).
28. Lydia S. Murdiyarso, Giri S. Rajahram, Angelica F. Tan, Kim A. Piera, Timothy William, Damian A. Oyong, Sitti Saimah Binti Sakam, Jenarun Jelip, Jiloris Dony, Anisah Jantim, Roddy Teo, Abdul Marsudi Manah, Bridget E. Barber, Nicholas M. Anstey, Matthew J. Grigg (2024). Plasmodium cynomolgi infections not found in microscopy-diagnosed malaria cases across Sabah, Malaysia. Am. J. Trop. Med. Hyg., 112(1), 2025:85-88.
29. Rini Chaturvedi, Shibani Biswas, Kanika Bisht, Amit Sharma (2023). The threat of increased transmission of non-knowlesi zoonotic malaria in humans: A systematic review. Published online by Cambridge University Press: 06 November 2023
Ths.Bs. Nguyễn Công Trung Dũng & TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn