Người Chứt, còn gọi là người Rục, người Sách, người A Rem, người Mày, người Mã Liềng, người Tu Vang, người Pa Leng, người Xe Lang, người Tơ Hung, người Cha Cú, người Tắc Cực, người U Mo, người Xá Lá Vàng... là một dân tộc ít người sinh sống tại Lào và Việt Nam.
Về địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 4 năm 1999, dân tộc Chứt có dân số 3.289 người, sống chủ yếu ở tại các huyện Minh Hoá, Tuyên Hoá, Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Một số sống ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh và tại tỉnh Đăk Lăk. Trên thực tế, 7 tên gọi dân tộc này là Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, A Rem, Xơ Lang, U Mo dùng để chỉ 7 nhóm trong tộc người Chứt. Nhóm người Rục được phát hiện muộn nhất vào năm 1959 ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình và đến năm 2004 có 85 hộ với 428 nhân khẩu. Theo ước tính của Tổng cục Thống kê ngày 01 tháng 7 năm 2003 thì dân số người Chứt chỉ còn 3.787 người
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người dân tộc thiểu số Chứt ở Việt Nam có dân số 6.022 người, cư trú tại 23 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chứt cư trú tập trung tại các tỉnh Quảng Bình 5.095 người, chiếm 84,6 % tổng số người Chứt tại Việt Nam; tỉnh Đăk Lăk 435 người, tỉnh Lâm Đồng 266 người, tỉnh Hà Tĩnh 156 người.
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue, có khoảng 450 người Chứt (Ethnologue ghi là theo điều tra dân số năm 1995 của Lào) sinh sống tại tỉnh Khammouan.
Người dân tộc Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với tiếng Việt.Tiếng dân tộc Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì gần gũi với tiếng dân tộc Kinh nguyên thủy. Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt như "bảo tàng lưu giữ các giai đoạn phát triển của tiếng Việt". Văn hóa của người Chứt cũng cho phép tìm lại lịch sử phát triển của người Việt cổ.
Người dân tộc Chứt sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, một phần sống nhờ săn bắn và hái lượm. Họ ăn cơm và đồ ăn cách thuỷ với thức ăn thường có rau rừng thái nhỏ nấu với ốc hay cá suối.
 |
Trang phục truyền thống nam giới dân tộc Chứt (nguồn:http://cuocsongviet.com.vn) |
Nhóm người Rục
Tộc người Rục được một Tiểu đội Công an tỉnh Quảng Bình phát hiện vào ngày 12 tháng 8 năm 1959 trong một hang sâu tại vùng hang động Phong Nha-Kẻ Bàng, thuộc xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình gồm 11 hộ gia đình với 34 người.
Người dân tộc Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở hang sâu, săn bắt, hái lượm... nhưng họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú với những nhạc cụ núi rừng như đàn Trơ Bon, đàn Môi, sáo Dọc và làn điệu Cà Lưm Cà Lềnh. Do tập quán lạc hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng sâu, người dân tộc Rục có nguy cơ suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.
Trong hơn 40 năm, người dân tộc Rục đã làm một cuộc hành trình về với cộng đồng. Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 414 người và được phân bố trong bốn bản Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò Ó-Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa, huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình; ở xen kẽ với các tộc khác như Sách, Mày, Kinh. Số liệu điều tra vào năm 2009 ghi nhận số lượng nhân khẩu có khoảng 600 người.
Về lịch sử phát triển
Trước đây, người dân tộc Chứt sống di cư, chủ yếu sống ở vùng rừng núi tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh trong điều kiện sống rất lạc hậu. Theo A. Cheon và Th. Guignard, hai nhà nghiên cứu người Pháp đã mô tả người dân tộc Chứt "hết sức nhút nhát, hễ thấy người lạ thì lập tức lẩn trốn. Họ không có quần áo, nam nữ đều che mình bằng vỏ cây sui, ngủ chung lẫn lộn trong hang hoặc trong lều. Họ ăn bột cây nhúc và săn bắt tôm, cá, thú nhỏ trong rừng. Cả nam và nữ đều búi tóc đằng sau". Có nguồn thông tin cho biết nhóm người Rục thời trước có nguồn thức ăn quan trọng là bột cây báng và thịt khỉ.
Dưới thời thực dân Pháp, người dân tộc Chứt bị miệt thị là "Xá Lá Vàng". "Xá" chỉ những tộc người lạc hậu; "Lá Vàng" chỉ cuộc sống di cư. Người dân tộc Chứt thường chỉ sống tại một địa điểm trong những túp lều lợp bằng lá cây khoảng vài ngày cho đến khi lá chuyển sang màu vàng thì bỏ đi nơi khác. Bản thân chữ "Chứt" cũng được hiểu là hang đá, nơi trú ngụ của người Chứt. Với trình độ sản xuất thấp, người dân tộc Chứt không biết dệt vải. Vào mùa hè, nam giới người Chứt thường đóng khố và cởi trần; còn phụ nữ Chứt mặc váy. Vào mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây.
Khi Việt Nam giành được độc lập sau cuộc kháng chiến chống Pháp, người Chứt được chính quyền Việt Nam vận động về sống định cư, hòa đồng hơn vào các tộc người khác.
 |
Người đàn ông này đang chuẩn bị nỏ lên rẫy (nguồn:http://cuocsongviet.com.vn) |
Ngày nay người dân tộc Chứt đã sống định canh, định cư nhưng các làng của người Chứt gọi là Cà Vên thường tản mạn và nhà cửa không bền vững. Họ sống nhờ trồng trọt như nhóm dân tộc Sách làm ruộng, còn nhóm dân tộc Rục và dân tộc A Rem làm rẫy, canh tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu hoạch, họ vẫn lên ở các hang núi gần nương rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong xuôi. Người Chứt cũng hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát khá phổ biến trong các tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao đổi do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo đồ kim loại.
Người dân tộc Chứt ngày nay thường nhận mình có họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng người dân tộc Chứt, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng.
Về văn hóa
Người dân tộc Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài lợn, gà; luôn luôn phải có thịt khỉ sấy khô.
Việc ma chay của người dân tộc Chứt đơn giản, nhóm dân tộc Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người dân tộc Kinh. Lễ tang được tổ chức trong 2 đến 3 ngày bằng nghi lễ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ phần được đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ nữa.
Ngoài thờ cúng tổ tiên, người dân tộc Chứt tin có ma rừng, ma suối, ma không trung, ma bếp... Trong tín ngưỡng của người dân tộc Chứt cũng có Thần nông bảo vệ mùa màng và là vị thần tối cao. Hoạt động nông nghiệp thường được thực hiện kèm theo các nghi lễ như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Người dân tộc Chứt có làn điệu dân ca là Cà Lưm, Kà Lềnh. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, ống sáo 6 lỗ... Dân tộc Chứt có vốn truyện cổ và văn nghệ dân gian phong phú, gồm nhiều đề tài khác nhau.