Người dân tộc Kháng còn có các tên gọi khác là Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aỏi, Xá Bung, Quảng Lâm. Đây là một dân tộc thiểu số sử dụng ngôn ngữ thuộc ngữ chi Khơ Mú của ngữ tộc Môn-Khmer. Ngôn ngữ của người dân tộc Kháng rất gần với tiếng của người Xinh Mun, gọi là tiếng Puộc.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, người dân tộc Kháng cư trú tại tỉnh Sơn La và Lai Châu. Theo điều tra dân số vào năm 1999, dân tộc Kháng có 10.272 người. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Kháng ở Việt Nam có dân số 13.840 người, cư trú tại 25 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người dân tộc Kháng cư trú tập trung tại các tỉnh Sơn La 8.582 người, chiếm tỷ lệ 62 % tổng số người Kháng tại Việt Nam, tỉnh Điện Biên 4.220 người, chiếm tỷ lệ 30,5% tổng số người Kháng tại Việt Nam, tỉnh Lai Châu 960 người.
Tại Lào, người dân tộc Kháng được gọi bằng các tên gọi khác nhau như Phong Kniang, Pong 3, Khaniang, Kenieng, Keneng, Lao Phong với dân số khoảng 1.000 ngườitheo số liệu của Wurm và Hattori, 1981.
Về đặc điểm kinh tế, văn hóa
Người dân tộc Kháng làm rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt, họ trồng nhiều lúa nếp làm lương thực chính, hiện nay nhiều nơi đã chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang nhưng không nhiều. Họ chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến. Nghề thủ công đan lát như làm ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi... khá phổ biến. Ngoài ra họ còn làm thuyền độc mộc kiểu đuôi én được người dân tộc Thái ưa chuộng. Người dân tộc Kháng thường dùng loại gùi một quai, đeo qua trán. Họ trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái.
Về văn hóa, theo phong tục của người dân tộc Kháng, người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, các đồ vật dành cho người chết như hòm đựng quần áo, giỏ cơm, ống hút rượu, bát, đũa... Phía đầu mộ thường chôn một cột cao từ 4 đến 5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ và treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.
Người dân tộc Kháng có quan niệm mỗi người có 5 hồn, hồn chính trên đầu và 4 hồn kia ở tứ chi. Khi chết mỗi người biến thành "ma ngắt" ngụ ở 5 nơi. Hồn chủ thành ma ở nhà, chỗ thờ tổ tiên là "ma ngắt nhá", hồn tay phải trên thiên đàng là "ma ngắt kỷ", hồn tay trái ở gốc cây làm quan tài là "ma ngắt hóm", hồn chân phải ở nhà mồ là "ma ngặt mơn", hồn chân trái lên trời thành ma trời là "ma ngặt xừ ù".
Về nhà cửa, trang phục
Người dân tộc Kháng thường ở nhà sàn. Nhà thường có 3 gian 2 chái, mái nhà kiểu mu rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Trước kia, mái nhà ở hai đầu hồi thường được làm thẳng, hiện nay nhiều nơi đã làm mới hình mái rua như nhà của người dân tộc Thái Đen. Mỗi nhà có hai bếp lửa, một bếp để nấu ăn hàng ngày, còn một bếp để sưởi ấm và để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết.
Trang phục của người dân tộc Kháng có cá tính tộc người bị mờ nhạt và giống phong cách trang phục của người dân tộc Thái Đen. Phụ nữ người dân tộc Kháng thường nhuộm răng đen, ăn trầu.