Để chẩn đoán xác định bệnh trong y học phải dựa vào các yếu tố dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng. Trong cận lâm sàng thì có chẩn đoán xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh, hiện nay ứng dụng công nghệ thông tin chẩn đoán hình ảnh từ các trang thiết bị công nghệ cao được hỗ trợ bởi các phần mềm tin học là không thể thiếu nhằm chẩn đoán bệnh chính xác hơn.
Từ lâu nước ta đã áp dụng nhiều phương pháp chẩn đoán hình ảnh phong phú và hiện đại như X quang, siêu âm-doppler màu, nội soi tiêu hoá và tiết niệu, chụp cắt lớp vi tính (Computed Tomography Scanner_CT. Scanner), chụp cộng hưởng từ hạt nhân (Magnetic Resonance Imaging_MRI)... góp phần quan trọng nâng cao độ chính xác, kịp thời và hiệu quả cao trong chẩn đoán bệnh. Chẳng hạn như dựa trên hình ảnh siêu âm, thầy thuốc có thể đo được tương đối chính xác kích thước các tạng đặc trong ổ bụng (gan, lách, thận, tuỵ, ...) và phát hiện các khối u bất thường nếu có. Từ hình ảnh siêu âm tim có thể xác định cấu trúc, kích thước các buồng tim, van tim và các mạch máu lớn; trong sản khoa, siêu âm giúp xác định và theo dõi sự phát triển của thai nhi trong bụng mẹ; hình ảnh CT Scanner giúp thầy thuốc xác định được một số bệnh lý ở sọ não, đặc biệt là xác định máu tụ nội sọ, khối u não; chụp cộng hưởng từ hạt nhân xác định chính xác hơn các hình thái và các khối bất thường trong cơ thể. Ngày nay, phần mềm công nghệ thông tin chẩn đoán hình ảnh không ngừng được nâng cấp, nhất là khi kỹ thuật số ra đời đã ghi nhận và phân tích tín hiệu rất tốt, cho hình ảnh sâu hơn, chất lượng ảnh tốt hơn. Bên cạnh đó, giao diện giữa các thiết bị y tế kỹ thuật cao kết nối với phần mềm quản lý bệnh viện trở nên phổ biến nên hội chẩn qua giao thức “truyền ảnh trên mạng” (như các hình ảnh về X quang, siêu âm, nội soi, CT Scanner...) giúp các thày thuốc và chuyên gia y tế có thể chẩn đoán từ xa, hướng dẫn kíp mổ hoặc “hội chẩn”.
Thực trạng ứng dụng chẩn đoán hình ảnh trong y học ở nước ta
Các trang thiết bị y tế chẩn đoán hình ảnh đầu tiên khi mới ra đời chỉ là tín hiệu dạng sóng (Analog) đưa lên màn hình VIDEO của máy. Tuy nhiên theo thời gian thiết bị được chế tạo ngày càng có cấu hình cao hơn và chuyển dần sang tín hiệu số, các phần mềm xử lý tín hiệu lưu trữ thông tin số ngay tại các máy đó (như máy siêu âm có thể lưu được 5000 ảnh của bệnh nhân gần đây nhất). Sau đó từng bước tiếp theo khi có các điều kiện đặt ra và nhu cầu giao tiếp giữa các thiết bị với nhau như CT Scanner chuyển cho máy chiếu tia Coban và truyền ảnh số giữa các vùng với nhau để trợ giúp chẩn đoán thì các chuẩn dữ liệu chung về hình ảnh của y tế dần dần xuất hiện, vì vậy các máy y tế ngày nay có gắn thiết bị tin học thì đã sẵn sàng đưa ra các tín hiệu thông qua các D-Shell chuẩn như COM, LPT hoặc USB port nhưng phần tín hiệu đưa ra các cổng này tuỳ nhà cung cấp trang bị phần mềm khi người sử dụng yêu cầu. Có nhiều chuẩn để truyền ảnh trên mạng như chuẩn PACS (Picture Archiving and Communication System) là hệ thống lưu trữ, xử lý và truyền ảnh động hoặc mạng xử lý và truyền ảnh số hoá DICOM (Digital Imaging and Communications in Medicine) đều có chung một tiêu chí là nén ảnh ở mức độ tối đa để giảm kích thước lưu trữ, giảm kích thước khi truyền trên mạng, có các mức độ phân giải khác nhau khi truyền. Nếu hình ảnh không cần chất lượng cao thì có thể truyền ở độ phân giải thấp và khi cần độ nét để chẩn đoán với chất lượng cao thì truyền ảnh với các độ phân giải cao hơn nhưng tốc độ truyền trên mạng sẽ chậm đi nhiều.
|
| Chụp cắt lớp vi tính (CT. Scanner) có độ chính xác cao trong chẩn đoán hình ảnh |
Hiện nay ứng dụng lưu trữ ảnh theo các chuẩn nhất định ở nước ta vẫn chỉ dược lưu trữ trên một máy mà không có sự kết nối giữa các máy với nhau nên dung lượng lưu trữ không cao, không có khả năng trợ giúp trong chẩn đoán và không thể là dữ liệu dùng chung trong bệnh viện. Phần lớn các trang thiết bị y tế thuộc thế hệ cũ không có cổng giao diện, không có tín hiệu ảnh số, việc nghiên cứu chế tạo ADC card chuyển đổi ở một số thiết bị còn ít và chất lượng các phần mềm xử lý ảnh chuyển đổi chưa cao. Ngoài một số thử nghiệm MINI-PACS truyền qua mạng LAN hoặc Intranet ở một số bệnh viện tuyến trung ương thì việc ứng dụng trợ giúp từ xa qua Telemedicine hầu như chưa được ứng dụng, trong khi các nước phát triển đã ứng dụng tương đối rộng rãi kỹ thuật này.
 |
| Chụp cộng hưởng từ MRI não |
Một số ứng dụng công nghệ thông tin chẩn đoán hình ảnh trong y học
X-quang (Teleradiology)
Trợ giúp chẩn đoán, lưu trữ tư liệu và nghiên cứu hình ảnh X quang là một trong những ứng dụng tin học phổ biến nhất trong các mạng PACS và Telemedicine, việc chuyển tín hiệu từ máy chụp X quang lên phòng mổ chấn thương chỉnh hình đã được nhiều nước áp dụng phổ biến, ở nước một số cơ sở đã áp dụng phương pháp này cung cấp cho phẫu thuật viên trong khi mổ có hình ảnh trực tiếp giúp cho việc mổ được tiến hành hiệu quả hơn.
|
Thiết bị X quang số trong chẩn đoán hình ảnh
|
Chuyển đổi hình ảnh nội soi từ tín hiệu Analog sang Digital
Nội soi tiêu hóa và tiết niệu là kỹ thuật được sử dụng tương đối phổ biến các bệnh viện tuyến tỉnh, tuy nhiên các kỹ thuật nội soi tá tràng can thiệp, nội soi đại tràng bằng ống soi mềm hầu như chưa được triển khai. Các máy nội soi có cấu hình cao, số hoá được các tín hiệu ảnh và lưu trữ, truyền được ảnh nội soi còn hiếm ở nước ta, việc nghiên cứu nối ghép chuyển đổi thế hệ máy nội soi đời cũ tín hiệu ảnh Analog dùng phần mềm và ADC card chuyển đổi, nhận dạng, sang kỹ thuật ảnh số, phục vụ cho việc chẩn đoán của các chuyên gia y tế chính xác hơn.
 |
| Hình ảnh nội soi tiêu hóa sau khi được chuyển đổi từ tín hiệu Analog sang Digital |
Hiệu quả của ứng dụng ảnh kỹ thuật số
Việc nối ghép máy vi tính với máy nội soi cùng phần mềm xử lý ảnh nhận dạng ảnh cũng như phần mềm chẩn đoán trợ giúp đã tạo điều kiện thuận lợi cho nội soi dạ dày-tá tràng phát triển và hoàn thiện với nhiều ưu việt. Giá thành chi phí về phim ảnh cho một bệnh nhân sẽ rẻ đi vì có thể lưu trữ ảnh rồi in trực tiếp trên máy in màu và cho ra kết quả ngay; có ảnh số chất lượng cao cho nhiều người cùng hội chẩn để chẩn đoán; có mạng nơ ron để thu nhận và nhận biết các triệu chứng tổn thương. Từ các triệu chứng của tổn thương này, kết hợp với mắt nhìn trực tiếp cảm nhận được cùng với các triệu chứng lâm sàng và vị trí thương tổn từ ngoài đưa vào thông qua hệ trợ giúp chẩn đoán sẽ cho kết quả của máy tự chẩn đoán. Phần kết quả máy tự chẩn đoán này sẽ là phần trợ giúp đắc lực cho các vùng kinh nghiệm về nội soi này còn hạn chế. Với cơ sở dữ liệu và ảnh được lưu trữ lại trong máy giúp ta có cơ sở để so sánh giữa các lần soi khác nhau trên cùng một bệnh nhân và là nguồn dữ liệu quan trọng để nghiên cứu khoa học. Trong tương lai không xa việc nối mạng tới từng khoa phòng trong bệnh viện được thực hiện thì hệ nhận dạng ảnh nội soi là trợ giúp chẩn đoán nội soi này sẽ được truyền trên mạng cho các khoa phòng liên quan có thể cùng tham gia hội chẩn để thống nhất chẩn đoán bệnh.
 |
| Ứng dụng thiết bị Lasee trong phẫu thuật nội soi tiêu hóa |
Telemedicine
Ứng dụng của Telemedicine nhằm hỗ trợ chẩn đoán từ xa, truyền ảnh cục bộ, hội chẩn hoặc giao ban qua mạng với các tài liệu được truyền là hình ảnh, âm thanh, văn bản... Telemedicine ở nước ta chưa phát triển do cơ sở hạ tầng và chi phí đường truyền quá đắt, hơn nữa đường truyền trên Internet hiện nay chỉ là đường truyền tốc độ thấp theo đường điện thoại công cộng (Public Swiched Telephone Network_ PSTN) giới hạn ở 64 Kbps, tương lai có thể dùng đường ISDN hoặc X25 của CPNET. Trên thế giới, các trung tâm kết nối với nhau bằng đường truyền tốc độ cao, hỗ trợ đọc phim hình ảnh y tế giữa các bệnh viện với nhau đặc biệt ở các nước phát triển Telemedicine sử dụng rất rộng rãi và có hiệu quả cao. Chuyển ảnh giữa các chuyên khoa liên quan đến nhau như chạy tia Coban cần ảnh chính xác của CT Scanner, ảnh CT được đưa sang máy chạy tia qua mạng nội bộ để giúp cho việc điều khiển máy chạy tia Coban chính xác, khoa chấn thương cần ảnh chẩn đoán trên mạng bệnh viện của khoa X quang...
 |
| Ứng dụng Telemedicine trong hội nghị giao ban hay hội thảo khoa học từ xa |
Trợ giúp tuyến trước chẩn đoán và điều trị
Là một dạng của Telemedicine chuyển tải ảnh qua hệ thống thông tin lưu trữ hình ảnh (PACS) hoặc có thể dùng Email với những nơi chưa có đường truyền tốt hoặc đường truyền trực tuyến đặc biệt trong tương lai như hình ảnh X-quang, hình ảnh lâm sàng lúc bệnh nhân vừa bị xảy ra tai nạn (dùng máy ảnh số chụp) từ địa phương khác nhau, các tuyến chuyên khoa khác nhau được truyền lên tuyến trên để các chuyên gia giỏi hỗ trợ tuyến trước xử lý tốt.
 |
| Ứng dụng Telemedicine hỗ trợ đào tạo tuyến trước |
Các phần mềm công nghệ thông tin chuyên dụng trong các máy móc và thiết bị y tế thực sự đã tạo ra bước đột phá trong việc ghi nhận và truyền dẫn hình ảnh chất lượng cao, không chỉ giúp cho việc chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời mà còn thu hẹp khoảng cách tiếp cận giữa các thầy thuốc, các chuyên gia y tế và các nhà khoa học trong nước cũng như quốc tế.