7. VIÊM NÃO DO VE TRUYỀN
 Viêm não do ve truyền (Tick-borne encephalitis) là bệnh do virusthuộc giống Flavivirus, họ Flaviviridae gây ra, với các triệu chứng giống cúm như sốt cao, đau đầu nghiêm trọng, buồn nôn, nôn và đau lưng. Có khoảng 30% ca bệnh tiến triển nặng ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (TKTU) và có thể dẫn đến liệt và tử vong. Bệnh thường nặng hơn ở những người lớn tuổi. Bệnh xảy ra ở nhiều nơi thuộc châu Âu và châu Á.
 Phương thức lan truyền bệnh
 Bệnh lan truyền thông qua ve nhiễm đốt, thường là ve Ixodes. Rất hiếm khi lan truyền bệnh xảy ra khi tiêu thụ các sản phẩm từ sữa chưa tiệt trùng của dê, bò và cừu bị nhiễm bệnh cũng như không lan truyền trực tiếp từ người sang người, ngoại trừ giữa bà mẹ mang thai và thai nhi.
 Hiện nay các nhà khoa học phân tích có các type virus gây bệnh ở người gồmtype virus châu Âu được lan truyền thông qua ve Ixodes ricinus, lưu hành ở các khu vực rừng và vùng nông thôn thuộc miền Trung, Tây và miền Bắc châu Âu; Type virus viễn Đông được lan truyền chủ yếu do ve I. persulcatus, lưu hành ở vùng viễn Đông, Nga và các khu vực rừng của Trung Quốc và Nhật Bản; Type virus Siberian được lan truyền thông qua ve I. persulcatus, lưu hành ở vùng Urals, Siberia vùng Viễn Đông, Nga cũng như một số khu vực ở Tây-Bắc châu Âu.
 Ổ chứa có khả năng các vật chủ chứa virus viêm não chủ yếu là các động vật gặm nhấm nhỏ (chuột nhắt, chuột đồng) và kể cả động vật ăn thịt gồm cáo, dơi, thỏ rừng, hươu, lợn rừng, cừu, gia súc, de và chó. Đây là những vật chủ ưu thích của ve và nhờ đó ve duy trì lưu hành virus. Khi ve hút máu nhiễm virus thì chúng truyền bệnh suốt đời và có khả năng truyền vi rút sang thế hệ sau qua trứng. Con người là vật chủ tình cờ và cuối cùng của virus gây bệnh.
 Hình 18. Phân bố bệnh viêm não do ve truyền đến tháng 01/2024 (US.CDC, 2014)
 Gánh nặng bệnh trên toàn cầu
 Viêm não virus do ve truyền có 3 type gồm viêm não virus châu Âu, viêm não virus Viễn Đông và viêm não virus Siberian. Bệnh đang là vấn đề nghiêm trọng y tế cộng đồng ở châu Âu và các nơi khác trên thế giới. Số ca viêm não virus do ve truyền ở tất cả các khu vực lưu hành châu Âu đã tăng 400% trong 30 năm qua. Khu vực nguy cơ đã mở rộng và các ổ bệnh mới đã phát hiện.Ước tính hiện nay có khoảng 10.000 - 12.000 ca lâm sàng về viêm não do ve truyền được báo cáo mỗi năm trên toàn cầu, nhưng con số này được cho là thấp hơn đáng kể so với tổng số ca lâm sàng thực tế.
 Hình 19. Bản đồ phân bố các ca bệnh viêm não do ve truyền ở châu Âu (ECDC, 2023)
 Theo đánh giá của TCYTTG thì vùng miền Tây Siberia, Nga có nhiều ca bệnh nhất trên thế giới. Các quốc gia khác cũng báo cáo ca bệnh hoặc có thể lệ lưu hành virus ở ve cao như Albania, Áo, Belarus, Bosnia, Bulgaria, Trung Quốc, Croatia, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Hy Lạp, Hungary,Ý, Mông Cổ, Na Uy, Ba Lan, Hàn Quốc, Romania, Serbia, Slovakia, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine. Trong 20 năm qua, trung bình có 8.500 ca được báo cáo ở 19 quốc gia châu Âu.
 8. BỆNH TULARAEMIA
 Bệnh Tularaemia (hay còn gọi là bệnh sốt thỏ-Rabbit fever) là bệnh do vi khuẩn Francisella tularensi gây ra và được tìm thấy phổ biển ở khu vực Bắc bán cầu. Đây cũng là một bệnh lây truyền từ động vật sang người thông qua véc tơ hoặc tiếp xúc với động vật nhiễm bệnh. Thời gian ủ bệnh Tularaemia thường kéo dài từ 3-5 ngày, nhưng có thể thay đổi tùy thuộc vào cách nhiễm xảy ra và lượng vi khuẩn mà người đó tiếp xúc. 
 Những người đi rừng săn bắt, quản lý động vật hoang dã, những người đi cắm trại là nhưng người có nguy cơ cao.
 Phương thức lan truyền bệnh
 Một số loài động vật hoang dã và động vật nuôi như thỏ, thỏ rừng hoặc động vật gặm nhấm và ve có thể là vật chủ chứa mầm bệnh Tularemia. Vi khuẩn Francisella tularensis có thể tồn tại trong nhiều tuần ở môi trường lạnh, ẩm ở nước, đất, cỏ khô, rơm và xác động vật đang phân hủy. 
 Do vi khuẩn dễ dàng phát tán trong không khí và liều lượng gây nhiễm bệnh rất thấp, nên F. tularensis đã được phân loại là tác nhân “chiến tranh sinh học tiềm năng”.
 Có 5 con đường lan truyền vi khuẩn Francisella tularensis sang người gồm:
 - Ăn thực phẩm và uống nước bị nhiễm vi khuẩn
 - Chạm/sờ vào động vật nuôi và hoang dã bị nhiễm bệnh
 - Bị ve nhiễm mầm bệnh đốt và ngoài ra một số loài côn trùng khác cũng có thể truyền bệnh. 
 - Hít phải bụi nhiễm vi khuẩn
 - Phơi nhiễm trong phòng thí nghiệm do vô tình tiếp xúc với vi khuẩn gây bệnh.
 Gánh nặng bệnh trên toàn cầu
 Bệnh phân bố ở khu vực bắc bán cầu, đặc biệt là ở châu Âu và Bắc Mỹ và một phần châu Á. Đây là bệnh hiếm gặp nhưng tỷ lệ tử vong có thể xảy ra, cụ thể tỷ lệ tử vong là khoảng 2% khi được điều trị thích hợp, nhưng tăng lên từ 5% đến 15% nếu không được điều trị.
 Hình 20. Phân bố bệnh Tularaemia trên toàn cầu (WHO, 2017)
 Tại Mỹ, bệnh được báo cáo ở hầu hết các bang, ngoại trừ Hawaii, với tỷ lệ cao nhất xảy ra ở các bang miền Trung như Arkansas, Kansas, Missouri và Oklahoma. Trong giai đoạn 2011-2022, có 47 bang báo cáo với 2.462 ca Tularemia, với trung bình 205 ca được báo cáo hàng năm. 
 Hình 21. Số ca bệnh được báo cáo hàng năm tại Mỹ giai đoạn 1950-2022 (Nguồn: CDC)
 Trong số các bang báo cáo thì có 4 bang miền Trung (Arkansas, Kansas, Missouri và Oklahoma) chiếm 50% tổng số ca bệnh. Tỷ lệ mắc cao nhất ở trẻ em từ 5-9 tuổi (0,083/100.000 dân) và nam từ 65-84 tuổi.
 Khu vực châu Âu,hàng năm có khoảng 800 ca bệnh được ghi nhận, chủ yếu ở các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Na Uy, cũng như ở các khu vực của Nga và một số quốc gia Đông Âu. Trong năm 2019, châu Âu có 1.463 ca bệnh xác định được báo cáo, riêng Thụy Điển chiếm 56% ca bệnh được ghi nhận. 
 Bệnh hiếm khi xuất hiện ở khu vực nhiệt đới và chưa được báo cáo ở bán cầu Nam. 
 Hình 22. Phân bố ca bệnh theo từng tháng ở các nước châu Âu năm 2019 và trung bình giai đoạn 2015-2018|Nguồn: ECCDC, 2019
 Các trường hợp bệnh cũng được báo cáo ở Nhật Bản và các vùng Tây Bắc và Đông Bắc của Trung Quốc.
 (còn nữa) --> Tiếp theo Phần 5
 TS.BS. Huỳnh Hồng Quang và TS. Đỗ Văn Nguyên
 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn