2. BỆNH DO TUNGA SPP.
 Tungiasis là một bệnh nhiễm trùng da do ngoại ký sinh là loài côn trùng gây ra, cụ thể là do loài bọ chét cátTunga penetrans. Ấu trùng và thiếu trùng phát triển trong đất khô dưới bóng râm mát, hầu hết chúng phát triển ở trong phòng ngủ của các ngôi nhà với sàn nhà là đất, đây là nơi xảy ra hầu trường hợp lan truyền bệnh tại các vùng lưu hành.
 Bọ chét ký sinh trên da gây viêm da, đau và ngứa, khó khăn trong việc đi lại, khó ngủ và khó tập trung trong học tập và làm việc. Tungiasislà bệnh ở động vật ảnh hưởng đến cả con người và động vật.Ngoài ra, bệnh có thể dẫn đến các biến chứng như loét da và áp xe do nhiễm trùng thứ cấp. Người già và trẻ em từ 4-14 tuổi, nhất là trẻ em là những người có nguy cơ cao nhất.
 Hình 6. Bọ chét cát Tunga penetrans|Nguồn: Wikipedia commons, 2020
 Về phương thức lan truyền bệnh
 Con đường lan truyền bệnh chính xảy ra ở trong phòng ngủ của những ngôi nhà có nền nhà bằng đất, nơi mà ấu trùng và thiếu trùng phát triển từ trứng bọ chét. Bọ chét cát xâm nhập vào da, sau đó đào hang và phát triển tăng gấp 2000 lần khi trứng phát triển. 
 Bọ chét cái thường sống 4-6 tuần, trong thời gian này bọ chét đẻ trứng và rơi xuống nền nhà và tiếp tục vòng đời mới. Các ngón chân, lòng bàn chân, vành bên của bàn chân và gót chân là những vị trí nhiễm phổ biếnnhất và 99% tất cả các tổn thương xảy ra ở bàn chân.
 Ở một số khu vực, có một vài loài động vật có vú đã được xác định hoạt động như các nguồn bệnh lây nhiễm cho con người. Ở các vùng nông thôn, ổ chứa chủ yếu là lợn và bò; ở đô thịcác cộng đồng nghèo thì nguồn bệnh được tìm thấy ở chó, mèo và chuột. 
 Ở một số nơi, nhiễm bệnh có thể được lan truyền mà không có nguồn bệnh khi da tiếp xúc với đất hoặc nền nhà có bọ chét cát cái trưởng thành phát triển.
 Hình 7. Vòng đời của bọ chét gây bệnh Tungiasis| Nguồn: US.CDC, 2020
 Gánh nặng bệnh tật
 Bọ chét T. penetrans được tìm thấy ở những khu vực nhiệt đới, cận nhiệt đới của vùng Caribbe, Nam Mỹ và khu vực cận Sahara, Châu Phi. Theo ước tính, thế giới có hơn 1 tỷ người sống ở những khu vực thích hợp cho lan truyền bệnh Tungiasis nhưng không có quốc gia nào thực hiện giám sát thường xuyên, vì vậy gánh nặng bệnh tật thực tế không biết thấu đáo. Tuy nhiên,tại các cộng đồng nơi bệnh lưu hành, các đợt điều tra dịch tễ đã báo cáo tỷ lệ nhiễm phổ biến từ 7-63%, tức là sự phân bố đồng nhất giữa các vùng.         
 Hình 8. Phân bố các quốc gia lưu hành Tungiasis trên toàn cầu
|Nguồn: Parasitology reviews, 2020
 Bệnh Tungiasis phát triển mạnh ở những nơi có điều kiện sống khó khăn như  các ngôi làng nằm ở những bãi biển xa xôi, các cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa và các khu ổ chuột ở các thành phố lớn và những khu vực này thì gánh nặng bệnh tập trung ở những người nghèo nhất.
 Do điều kiện khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, Việt Nam có thể có môi trường thuận lợi cho sự tồn tại của bọ chét cát. Tuy nhiên, chưa có báo cáo chính thức về các trường hợp mắc bệnh trong nước. Việc nâng cao nhận thức về bệnh và thực hiện các biện pháp phòng ngừa là cần thiết để đảm bảo sức khỏe cộng đồng, nhất là các vùng nông thôn, miền núi cũng như các khu vực có điều kiện môi trường vệ sinh kém.
 3. SỐT XUẤT HUYẾT CRIMEAN-CONGO 
 Sốt xuất huyết Crimean-Congo (Crimean Congo Haemorrhagic Fever-CCHF) là một bệnhdo virus cấp tính nghiêm trọng và lây truyền từ động vật sang người thông qua véc tơ. Bệnh lưu hành ở hơn 30 quốc gia trên một khu vực địa lý rộng lớn của châu Á, châu Phi, Đông Âu và Trung Đông. Bệnh có các triệu chứng gồm sốt, đau nhức cơ, chóng mặt, đau, cứng cổ, đau lưng, nhức đầu, đau mắt và nhạy cảm với ánh sáng. Có thể buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng và đau họng ngay từ đầu, sau đó là thay đổi tâm trạng đột ngột và lú lẫn trên một số bệnh nhân. 
 Ngoài ra còn có các biểu hiện khác như nhịp tim nhanh, phát ban, hạch bạch huyết sưng to, suy gan và thận. Hơn 1/3 người nhiễm mầm bệnh chết ở tuần thứ 2 của bệnh.
 Phương thức lan truyền bệnh
 Virus CCHF là tác nhân gây bệnh, là một loại virus RNA thuộc giống Orthonairovirus, họ Nairoviridae, bộ Bunyavirales do ve (giống Hyalomma) truyền. Với khả năng lan truyền từ người sang người cũng như thiếu thuốc điều trị đặc hiệu và không có vắc xin đặc hiệu, bên cạnh đó bản chất bệnh lan truyền từ động vật sang người nên việc kiểm soát bệnh trở nên khó khăn.
 Virus CCHF được lan truyền sang người khác thông qua ve đốt hoặc thông qua tiếp xúc với máu hoặc các mô của động vật nhiễm bệnh trong và ngay sau khi giết mổ động vật. Phần lớn các trường hợp nhiễm bệnh xảy ra ở những người liên quan đến ngành chăn nuôi như nông dân, người giết mổ động vật và các bác sĩ thú y.
 Hình 9. Các loài ve thuộc giống Hyalomma là véc tơ chính truyền bệnh CCHF 
 Nguồn: Robert Swanepoel/NICD South Africa, 2020
 Bên cạnh lan truyền thông qua véc tơ là ve thì lan truyền từ người sang người cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với máu, các dịch tiết, các cơ quan nội tạng hay các dịch tiết khác cơ thể của người mắc bệnh. Nhiễm mầm bệnh trong bệnh viện cũng có thể xảy ra do khử trùng không đúng cách các dụng cụ y tế, tài sử dụng tiêm kim tiêm và nhiễm bẩn các vật tư y tế ô nhiễm mầm bệnh.
 Hình 10. Phân bố bệnhSốt xuất huyết Crimean-Congo trên toàn cầu
|Nguồn: US.CDC, 2020
 Gánh nặng bệnh trên thế giới          
      Sốt xuất huyết Crimean-Congo là bệnh do virus gây ra với tỷ lệ tử vong theo ca bệnh lên đến 40% ở các đợt bùng phát bệnh. Bệnh lần đầu tiên được mô tả vào năm 1944 ở Crimean Peninsula và được lấy tên là sốt xuất huyết Crimean (Crimean haemorrhagic fever-CHF). Năm 1969, các nhà khoa học đã nhận ra rằng tác nhân gây bệnh sốt xuất huyết Crimean giống với tác nhân gây ra căn bệnh được xác định năm 1956 ở lưu vực Congo. Sự liên kết của hai địa danh này đã tạo ra tên hiện tại của căn bệnh và virus này.
 CCHF là bệnh đặc hữu ở khu vực châu Phi, vùng Balkan, Trung Đông và một số quốc gia ở châu Á. Ước tính mỗi năm có khoảng 3 tỷ người trên thế giới có nguy cơ nhiễm và 10.000-15.000 ca mắc bệnh, trong đó khoảng 500 trường hợp tử vong. Các trường hợp mắc bệnh đã được báo cáo tại hơn 30 quốc gia ở châu Phi, châu Á và châu Âu.Iraq là một trong những quốc gia Trung Đông, nơi mà bệnh CCHF lưu hành. CCHF đã được báo cáo lần đầu tiên ở 10 bệnh nhân vào năm 1979. Kể từ đó bệnh ghi nhân liên tục tại Iraq, cụ thể giai đoạn năm 1989-2009 ghi nhận 6 ca, năm 2010 ghi nhận 11 ca; 3 ca tử vong được báo cáo năm 2018. Gần đây, có 33 ca được chẩn đoán xác định với 13 ca tử vong (tỷ lệ tử vong 39%) được báo cáo trong năm 2021.
 Từ ngày 01/01/2022 đến 22/5/2022, các có quan y tế của Iraq đã thông báo cho TCYTTG về 212 ca CCHF, trong đó có 115 (54%) ca nghi nhờ và 97 (46%) ca xác định. Có  27 ca tử vong, 14 ca nghi nghờ và 13 ca xác định. Số ca được báo cáo trong 5 tháng năm 2022 cao hơn nhiều số ca được báo cáo trong năm 2021 khi chỉ có 33 ca xác định. Chăn nuôi cừu và gia súc là phổ biến ở Iraq. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các động vật này thường nhiễm với các loài ve, chủ yếu là Hylomma, véc tơ chính truyền bệnh CCHF. 
 Một báo cáo mới đây của Mehdi Fazlalipour và cộng sự (2024) cho biết, trong giai đoạn 2000-2023, Iran ghi nhận 12 ca xác định ở các nhân viên y tế (7 y tá và 5 bác sĩ).
 4. BỆNH LYME
        Ve có thể truyền nhiễm mầm bệnh nghiêm trọng cho con người gồm vi khuẩn, virus và ký sinh trùng. Bệnh Lyme là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Borrelia gây ra, đây là bệnh được lan truyền thông qua ve đốt. Bệnh lần đầu tiênđược ghi nhận vào những năm 1976 với nhiều ca bệnh biểu hiện lâm sàng viêm khớp ở trẻ em tập trung ở Lyme, Connecticut và hiện nay đây là bệnh do ve phổ biến được báo cáo ở Mỹ. 
        Bệnh Lyme thường bắt đầu với phát ban đỏ hình tròn hoặc hình ovan gọi là ban đỏ di chuyển, ban đỏ từ vết đốt của ve lan rộng ra sau một vài ngày. Các triệu chứng phổ biến khác gồm sốt, đau đầu, đau cơ và khớp và mệt mỏi. Nếu không điều trị thì nhiễm trùng có thể lan rộng và dẫn đến phát ban ở nhiều vị trí trên cơ thể, liệt mặt(yếu cơ một bên hoặc hai bên khuôn mặt), viêm màng não, hoặc các biến chứng liên quan đến tim. Sau đó, bệnh nhân có thể phát triển viêm khớp mạn tính, thường là khớp lớn như đầu gối và các biến chứng liên quan đến thần kinh như rối loạn trí nhớ, rối loại giấc ngủ và các vấn đề về thần kinh ngoại biên. 
 Phương thức lan truyền bệnh
      Đây là bệnh lan truyền từ động vật sang người và bệnh được lan truyền chủ yếu thông qua ve Ixodes nhiễm vi khuẩn Borrelia spp. đốt và truyền bệnh. Ve nhiễm vi khuẩn khi đốt các vật chủ nhỏ nhiễm bệnh như chuột, chó, hươu và sóc, từ đó có thể truyền cho các vật chủ khác kể cả con người và động vật khi bị ve nhiễm vi khuẩn đốt. 
      Nhiều loài động vật có vú có thể nhiễm bệnh, tuy nhiên các loài gậm nhấm và hươu hoạt động như là ổ chứa quan trọng. Những người đang sống hoặc thăm các vùng nông thôn và những người đi bộ đường dài là những người có nguy cơ cao. Khi bị đốt thì ve nên được loại bỏ càng sớm càng tốt để giảm nguy cơ nhiễm bệnh.
 Hình 11. Vùng nguy cơ lan truyền bệnh Lyme trên thế giới| Nguồn: Parasitology, 2021
 Véc tơ chính truyền bệnh Lyme là các loài ve thuộc giống Ixodes.Loài Ixodes ricinus và Ixodes persulcatus là véc tơ chính ở châu Âu và châu Á, Ixodes scapularis và Ixodes pacificus là véc tơ chính ở Bắc Mỹ và Ixodes hexagonus. Các nghiên cứu tại Mỹ cho thấy tỷ lệve nhiễm vi khuẩn gây bệnh Lyme thay đổi từ 0 đến hơn 50%, tùy thuộc vào khu vực và giai đoạn sống. Với các nghiên cứu tại các vùng lưu hành bệnh cao nhất ở châu Âu thì tỷ lệ ve nhiễm vi khuẩn bệnh Lyme có thể vượt quá 10% và những khu vực này thường ở Trung Âu.
        Ve chân đen có vòng đời từ 2-3 năm, trong giai đoạn này chúng phải trải qua 4 giai đoạn phát triển gồm trứng, ấu trùng, thiếu trùng và con trưởng thành. Sau khi trứng nở thành ấu trùng và phát triển thành thiếu trùng thì giai đoạn này chúng cần đốt máu vật chủ để phát triển đến giai đoạn tiếp theo. Ở giai đoạn trưởng thành thì ve cái cần đốt máu để đẻ trứng. Các giai đoạn gồm ấu trùng, thiếu trùng và ve trưởng thành đều có thể nhiễm vi khuẩn bệnh Lyme nếu chúng đốt vật chủ nhiễm bệnh;
 + Ve ở giai đoạn ấu trùng và thiếu trùng có thể nhiễm vi khuẩn bệnh Lyme khi chúng đốt máu vật chủ hoang dã nhiễm bệnh và thường là đốt chuột. Khi bị nhiễm vi khuẩn chúng có thể truyền vi khuẩn khi đốt máu vật chủ khác. Giai đoạn này kích thước của ve nhỏ nên khi bám dính vào da người khó phát hiện hơn nên khả năng bị ve đốt cao hơn;
 + Ve cái nhiễm vi khuẩn của bệnh Lyme có thể không truyền vi khuẩn sang thế hệ con của chúng. Giai đoạn trưởng thành, ve có kích thước lớn hơn nên khi dính trên da thì dễ phát hiện và loại bỏ;
 + Hươu là vật chủ quan trọng để ve đốt máu, tồn tại và di chuyển đến khu vực mới, đây thường là vật chủ ưa thích của ve trưởng thành. Tuy nhiên, khi hươu không nhiễm vi khuẩn bệnh Lyme thì ve cũng không nhiễm.
 Hầu hết trường hợp thì ve phải dính trên da hơn 24 giờ trước khi vi khuẩn bệnh Lyme có thể truyền được cho người lành. Còn nếu chúng ta loại bỏ ve sớm trong vòng 24 giờ, thì chúng ta có thể giảm đáng kể nguy cơ nhiễm bệnh Lyme.Hiện nay chưa có bằng chứng cho thấy lan truyền bệnh Lyme từ người sang người thông qua tiếp xúc, hôn và quan hệ tình dục với người mắc bệnh Lyme. Ngoài ra cũng chưa có bằng chứng lan truyền từ mẹ sang con thông qua thai nhi cũng như khi bà mẹ cho trẻ bú. 
 Mặc dù chó và mèo có thể nhiễm bệnh Lyme, tuy nhiên đến nay chưa có bằng chứng bệnh có thể lây nhiễm cho chủ của chúng. Tuy nhiên, thú cưng có thể nhiễm ve và mang ve vào nhà hoặc sân, do vậy cần bảo vệ thú cứng thông qua các sản phẩm phòng ngừa ve và bệnh do ve truyền cho động vật.
 Hình 12. Tăng trưởng cơ thể ve I. scapularis sau khi đốt máu vật chủ 8 ngày liên tục |Nguồn: Frontiers, 2022
 Gánh nặng bệnh toàn cầu
           Bệnh Lyme là bệnh do ve truyền phân bố trên toàn thể giới nhưng tập trung chủ yếu ở châu Mỹ, châu Âu, Trung Đông và châu Á tại hơn 80 quốc gia. Bệnh ảnh hưởng nhiều đến các động vật nuôi, động vật hoang dã và con người. Nghiên cứu năm 2022, ước tính 14% dân số thế giới đã được chẩn đoán bệnh Lyme. Khu vực châu Âu số ca mắc bệnh Lyme báo cáo gia tăng đều đặn, hơn 360.000 ca được báo cáo trong hai thập niên qua, trong đó các quốc gia Trung Âu có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất.
           Riêng tại Mỹ, đây là bệnh phổ biến và đã được báo cáo ở 49 tiểu bang, nhưng hơn 90% số trường hợp xảy ra từ Maine đến Virginia, Wisconsin, Minnesota và Michigan. Trên bờ biển phía Tây, phần lớn các trường hợp xảy ra ở khu vựcBắc California và Oregon. Theo báo cáo của Trung tâ Kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật của Mỹ (US.CDC) trong năm 2022 (từ các phòng y tế bang và Quận Columbia trong năm 2022) có 62.551 ca, tăng 68,5% so với trung bình hằng năm giai đoạn 2017-2019. Mặc dù, tổng số ca mắc báo cáo cao hơn so với những năm trước nhưng vẫn thấp hơn số ca ước tính là 467.000 ca chẩn đoán bệnh Lyme xảy ra hằng năm tại Mỹ.
           Ở Mỹ, bệnh Lyme chủ yếu do loài Borrelia burgdorferi gây ra và ở mức độ thấp hơn là do B. mayonii, bệnh này gần đây đã được tìm thấy ở các bang ở miền Trung và Tây Nam. Tại Châu Âu và Châu Á, bệnh Lyme chủ yếu do các loài B. afzelii, B. garinii và B. burgdorferi gây ra. 
           Bệnh thường bùng phát vào mùa hè và đầu mùa thu. Hầu hết bệnh nhân là trẻ em và thanh niên sống trong các khu vực rừng rậm.
 (còn nữa) -->Tiếp theo Phần 3
 TS.BS. Huỳnh Hồng Quang và TS. Đỗ Văn Nguyên
 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn