Bệnh tăng huyết áp ngày càng phát triển đã gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh cũng như tạo nên gánh nặng cho gia đình và xã hội do những hậu quả của chúng. Hiện nay, tăng huyết áp được Bộ Y tế xếp vào nhóm Dự án các bệnh không lây nhiễm thuộc Chương trình mục tiêu y tế quốc gia để các địa phương có điều kiện và nguồn lực chủ động thực hiện kế hoạch phòng chống căn bệnh khá phổ biến này.
Đặc điểm bệnh tăng huyết áp
Trong các bệnh về tim mạch, tăng huyết áp là một trong những vấn đề sức khỏe quan trọng nhất đối với người bệnh, kể cả gia đình và xã hội. Vào năm 2000, trên thế giới có khoảng 972 triệu người bị tăng huyết áp, chiếm tỷ lệ 26,4% số người trưởng thành thì đến năm 2005, số người bị mắc bệnh này đã tăng lên đến 1,56 tỷ người, chiếm tỷ lệ 29,2% số người trưởng thành. Ở Việt Nam vào năm 1993, số người từ 15 tuổi trở lên bị mắc bệnh tăng huyết áp chiếm tỷ lệ 11,7%. Đến năm 2003, thống kê sơ bộ ở 4 tỉnh phía Bắc ghi nhận tỷ lệ tăng huyết áp đã chiếm tới 16,3% số người trưởng thành. Thống kê này cũng cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp ở nam giới (18%) nhiều hơn nữ giới (14,5%). Đặc biệt ở những người cao tuổi trên 75, tỷ lệ mắc bệnh tăng huyết áp chiếm tới 65,5%.
Tăng huyết áp là huyết áp trong động mạch cao hơn mức bình thường. Về bản chất, đây là một dấu hiệu lâm sàng nhưng chỉ có một số ít bệnh nhân khoảng 10% có huyết áp cao được tìm thấy nguyên nhân bệnh lý ở thận, tuyến thượng thận, động mạch chủ, bệnh nội tiết, do uống thuốc nhóm corticoide, thuốc tránh thai... Tình trạng tăng huyết áp ở những người này được gọi là tăng huyết áp thứ phát. Trong khi đó, đa số các trường hợp tăng huyết áp đều không tìm thấy nguyên nhân mà chỉ có một số yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh tăng huyết áp phát triển như ăn nhiều muối, béo phì, ít vận động thể lực, căng thẳng tinh thần, nghiện thuốc lá, tuổi cao, di truyền... Tình trạng tăng huyết áp ở những người này được gọi là tăng huyết áp nguyên phát và chiếm tỷ lệ khoảng 90%.
Tăng huyết áp không những phổ biến mà còn gây ra nhiều biến chứng nặng nề với tỷ lệ tử vong và tàn phế cao do tai biến mạch máu não, tổn thương đáy mắt, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận... Tuy nhiên, gần đây với sự hình thành các loại thuốc điều trị tốt và hiệu quả, phương pháp phòng bệnh được áp dụng rộng rãi, người bệnh được trang bị những kiến thức hiểu biết về bệnh lý và tầm quan trọng của việc điều trị... nên tỷ lệ tử vong cũng như các biến chứng của bệnh tăng huyết áp đã và đang được chủ động giảm dần một cách rõ rệt.
Huyết áp bình thường và các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp
Huyết áp là áp lực máu trong động mạch bao gồm áp lực trong thì tim bóp biểu hiện bằng huyết áp tâm thu, còn gọi là huyết áp tối đa và áp lực trong thì tim giãn biểu hiện bằng huyết áp tâm trương, còn gọi là huyết áp tối thiểu. Ở người bình thường, đo ở cánh tay, huyết áp tâm thu từ 90 đến 120 mm Hg; còn huyết áp tâm trương từ 60 đến 80 mm Hg. Chỉ số này được cơ thể duy trì tương đối ổn định tuy có tăng hoặc giảm nhẹ. Theo nhịp sinh lý, huyết áp khi nghỉ ngơi thường thấp hơn khi vận động hoặc có thể biến đổi theo tình huống như gặp căng thẳng, nguy hiểm... thì huyết áp tăng lên.
Huyết áp tối ưu khi huyết áp tâm thu dưới 120 mm Hg và huyết áp tâm trương dưới 80 mm Hg. Huyết áp bình thường khi huyết áp tâm thu dưới 130 mm Hg và huyết áp tâm trương dưới 85 mm Hg. Huyết áp bình thường cao khi huyết áp tâm trương từ 130 đến 139 mm Hg và huyết áp tâm trương từ 85 đến 89 mm Hg.
Huyết áp bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tương đối phức tạp, đan xen lẫn nhau và có thể sắp xếp như sau:
- Yếu tố về tim: huyết áp có thể bị thay đổi bởi cung lượng tim. Khi vận động thể lực mạnh thì cung lượng tim tăng lên làm cho huyết áp tăng theo.
- Yếu tố về mạch máu: sức cản thành động mạch là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến huyết áp. Khi mạch máu bị co lại do dùng thuốc, do yếu tố thần kinh hoặc yếu tố nội tiết... hay mạch máu bị hẹp và xơ cứng lại do xơ vữa động mạch sẽ làm cho huyết áp tăng lên.
- Yếu tố về thần kinh: cũng ảnh hưởng đến huyết áp qua các phản xạ thần kinh tự động, nhất là hệ thần kinh giao cảm có vai trò quan trọng trong tăng huyết áp.
- Yếu tố về thể dịch: khi khối lượng tuần hoàn thừa, ăn nhiều muối... làm tăng huyết áp. Ngược lại, nếu mất máu cấp tính, tiêu chảy cấp tính làm giảm khối lượng tuần hoàn sẽ làm cho huyết áp giảm.
- Yếu tố về nội tiết: một số các chất nội tiết có thể làm tăng huyết áp như aldosterone, streroide, catecholamine...
Nguyên nhân và cơ sở xác định tăng huyết áp
Tăng huyết áp do 2 nhóm nguyên nhân chính sau đây:
- Tăng huyết áp nguyên phát: còn gọi là tăng huyết áp không rõ nguyên nhân, chiếm đa số khoảng 90% các trường hợp tăng huyết áp. Bệnh thường có tính chất gia đình và thường gặp ở người lớn tuổi. Một số yếu tố khác như béo phì, nghiện rượu, ăn nhiều muối, căng thẳng thần kinh cũng góp phần gây nên bệnh lý.
- Tăng huyết áp thứ phát: chỉ chiếm khoảng 10% tổng số các trường hợp tăng huyết áp và do các nguyên nhân:
. Bệnh thận và mạch máu thận: như các bệnh viêm cầu thận, sỏi thận, nang thận, hẹp động mạch thận...
. Bệnh nội tiết-chuyển hóa: như các bệnh Cushing, u tuyến thượng thận, cường tuyến giáp trạng, hội chứng chuyển hóa..
. Các nguyên nhân khác: như có thai, hẹp eo động mạch chủ, dùng một số thuốc dài ngày làm tăng huyết áp như nhóm thuốc steroide, thuốc tránh thai, thuốc chống trầm cảm...
Tăng huyết áp được xác định khi huyết áp tâm thu, còn gọi là huyết áp tối đa bằng hoặc cao hơn 140 mm Hg và huyết áp tâm trương, còn gọi là huyết áp tối thiểu bằng hoặc cao hơn 90 mm Hg.
Mức độ tăng huyết áp được xếp theo bảng phân loại tăng huyết áp như sau:
. Tăng huyết áp độ 1: khi huyết áp tối đa từ 140 đến 159 mm Hg, huyết áp tối thiểu từ 90 đến 99 mm Hg.
. Tăng huyết áp độ 2: khi huyết áp tối đa từ 160 đến 179 mm Hg, huyết áp tối thiểu từ 100 đến 109 mm Hg.
. Tăng huyết áp độ 3: khi huyết áp tối đa bằng hoặc trên 180 mm Hg, huyết áp tối thiểu bằng hoặc trên 110 mm Hg.
Cả hai chỉ số đều có giá trị để đánh giá mức độ tăng huyết áp. Tuy nhiên ở người trên 50 tuổi thì chỉ số huyết áp tâm thu quan trọng hơn chỉ số huyết áp tâm trương. Nếu hai chỉ số huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở hai mức độ khác nhau thì lấy chỉ số huyết áp cao hơn để phân loại. Ví dụ như huyết áp 170/95 mm Hg được xếp loại tăng huyết áp độ 2.
Triệu chứng và biến chứng tăng huyết áp
Đa số bệnh nhân tăng huyết áp không có triệu chứng gì rõ rệt. Người bệnh chỉ cảm thấy có lúc đau đầu, chóng mặt... Nếu tăng huyết áp thứ phát thì triệu chứng các bệnh căn nguyên có thể gặp là:
- Đau thắt lưng, đi tiểu buốt, tiểu ra máu trong bệnh sỏi thận.
- Đi tiểu có nước tiểu sẫm màu, phù thủng trong bệnh viêm cầu thận.
- Béo bụng, mặt tròn, bụng có vết rạn nứt trong hội chứng bệnh Cushing, hội chứng chuyển hóa...
Trong nhiều trường hợp, bệnh nhân đến khám vì các biểu hiện biến chứng của tăng huyết áp, chứng tỏ bệnh đã có từ lâu nhưng không được phát hiện như:
- Liệt nửa người do biến chứng tai biến mạch máu não.
- Mờ mắt do biến chứng ở mắt.
- Đau thắt ngực do biến chứng thiếu máu cơ tim.
- Ho, khó thở do biến chứng suy tim.
Biến chứng của bệnh tăng huyết áp được xếp thành 4 nhóm chính:
- Biến chứng ở não: như tai biến mạch máu não do chảy máu não hoặc nhồi máu não, suy giảm trí nhớ...
- Biến chứng ở tim: như suy tim, bệnh mạch vành tim gây đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim; loạn nhịp tim...
- Biến chứng ở thận: ở mức độ nhẹ như tiểu ra proteine đến mức độ nặng như suy thận mạn tính.
- Biến chứng ở mắt: như phù gai thị, thoái hóa hoàng điểm dẫn tới mù.
Nguyên tắc cơ bản để phòng tránh tăng huyết áp
Vì bệnh tăng huyết áp phần lớn không có nguyên nhân rõ ràng nên không có biện pháp phòng bệnh nào hữu hiệu. Tuy nhiên có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh bằng các giải pháp sau đây:
- Thực hiện lối sống lành mạnh, gần với tự nhiên như tăng vận động thể lực gồm đi bộ, đi xe đạp thay cho đi ô tô, xe máy; dùng cầu thang bộ thay cho cầu thang máy, chơi các môn thể thao... Tránh căng thẳng thần kinh, gạt bỏ những lo nghĩ không cần thiết hoặc không giải quyết được...
- Xây dựng chế độ ăn phù hợp như giảm chất muối, giảm thức uống có cồn như bia rượu, không hút thuốc lá. Tránh thừa cân như ăn uống vừa phải, không ăn nhiều mỡ, tránh đồ ăn nhanh, thường xuyên theo dõi cân nặng...
- Phát hiện và điều trị sớm các bệnh gây tăng huyết áp như xét nghiệm nước tiểu để phát hiện bệnh viêm cầu thận, siêu âm thận để phát hiện bệnh sỏi thận, hẹp động mạch thận... Phát hiện một số triệu chứng của các bệnh nội tiết gây tăng huyết áp để đi khám bệnh kịp thời như mặt đỏ và tròn trong bệnh Cushing; mạch nhanh, hay hồi hộp trong u tuyến tủy thượng thận; gầy sút, run tay trong bệnh cường tuyến giáp trạng...
- Thận trọng khi sử dụng một số các loại thuốc có thể gây tăng huyết áp. Nếu dùng các loại thuốc thuộc nhóm corticoide, thuốc chống trầm cảm, thuốc tránh thai... cần có chỉ định của bác sĩ và phải theo dõi huyết áp thường xuyên để phát hiện, phòng tránh tăng huyết áp.