Trong danh mục thuốc thiết yếu điều trị bệnh sốt rét được Bộ Y tế quy định,loại thuốc Primaquine đã chỉ định sử dụng để điều trị trong một số các trường hợp cần thiết. Thuốc có độc tính, nhiều tác dụng phụ và chống chỉ định dùng cho các đối tượng không phù hợp. Tuy vậy, một số các cơ sở y tế thường không chú ý đến việc sử dụng loại thuốc này một cách đúng đắn để bảo đảm hiệu quả, an toàn và hợp lý cho bệnh nhân.
Ở Việt Nam có 2 chủng loại ký sinh trùng sốt rét thường gây bệnh cho người là Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Tuỳ theo chủng loại ký sinh trùng gây bệnh, việc sử dụng thuốc Primaquine có mục đích điều trị khác nhau.
Đặc điểm dược lý và cơ chế tác dụng của thuốc:
Primaquine là thuốc điều trị bệnh sốt rét thuộc nhóm 8-aminoquinolein, có tác dụng diệt thể ngoại hồng cầu trong gan của tất cả các loại ký sinh trùng sốt rét và được sử dụng để điều trị tiệt căn sốt rét do P.vivax. Khi dùng để điều trị tiệt căn bệnh sốt rét do P.vivax, Primaquine phải được dùng cùng thuốc diệt thể tư dưỡng (Trophozoite) và thể phân liệt (Schizonte) trong máu của bệnh nhân; thuốc thường được dùng là Chloroquine để diệt ký sinh trùng trong hồng cầu. Primaquine không có tác dụng chống các thể trong hồng cầu của P.falciparum, vì vậy không dùng trong lâm sàng để điều trị sốt rét do P.falciparum.
Primaquine chỉ dùng bằng đường uống và được hấp thu tốt qua đường tiêu hóa. Khi uống một liều Primaquine, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt sau khoảng 1-2 giờ rồi giảm nhanh chóng và thời gian bán phân hủy từ 3-6 giờ. Primaquine được nhanh chóng chuyển hóa ở gan và chỉ có một lượng nhỏ đào thải ra nước tiểu dưới dạng không biến đổi.
Các độc tính và những trường hợp không nên sử dụng thuốc:
Primaquine là thuốc có độc tính (thuốc độc bảng B) nên cần thận trọng khi dùng cho những người có quá mẫn với thuốc. Người có bệnh toàn thân cấp tính có khuynh hướng bị giảm bạch cầu hạt. Người đang dùng các loại thuốc khác có tiềm năng gây tan máu. Những người bệnh có sự thiếu hụt men G6PD (Glucose 6 Phosphate Dehydrogenase). Phải ngừng sử dụng ngay thuốc nếu bệnh nhân có dấu hiệu tan huyết hoặc đái huyết cầu tố. Không dùng thuốc cho trẻ em dưới 3 tuổi, phụ nữ có thai vì thuốc đi qua nhau thai có thể gây thiếu máu tan huyết ở thai thiếu hụt men G6PD trong tử cung, người có bệnh gan. Khi sử dụng thuốc, phản ứng phụ thường gặp như buồn nôn, đau vùng thường vị, co cứng cơ bụng; một số trường hợp ít gặp như bị thiếu máu tan huyết, thiếu máu nhẹ, tăng huyết áp, loạn nhịp, giảm bạch cầu, mất bạch cầu hạt, ngứa da ...Để giảm bớt các tác dụng không mong muốn của thuốc ở hệ tiêu hóa, nên uống thuốc cùng với bữa ăn.
Chỉ định sử dụng thuốc Primaquine trong điều trị bệnh sốt rét:
Bộ Y tế đã có hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét ban hành kèm theo Quyết định số 339/QĐ-BYT ngày 31/01/2007, trong đó có quy định cụ thể về việc sử dụng thuốc Primaquine để điều trị bệnh sốt rét.
Thuốc Primaquine có hàm lượng mỗi viên thuốc 13,2 mg phosphate, trong đó có chứa 7,5 mg base, liều Primaquine phosphate thường được tính theo Primaquine base và chỉ định sử dụng cho 2 trường hợp sau đây:
1. Điều trị tiệt căn và dự phòng tái phát sốt rét do bị nhiễm P.vivax:
Sau khi điều trị một đợt thuốc chống thể tư dưỡng và phân liệt trong máu để diệt ký sinh trùng trong hồng cầu bằng Chloroquine. Cần cho bệnh nhân uống tiếp theo sau đó thuốc Primaquine với liều lượng 0,5 mg base/kg/ngày trong 10 ngày. Nếu không có điều kiện để cân, có thể sử dụng liều lượng thuốc theo lứa tuổi như:từ 3 tuổi đến dưới 5 tuổi uống 1 viên/ngày, từ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi uống 2 viên/ngày, từ 12 tuổi đến dưới 15 tuổi uống 3 viên/ngày,từ 15 tuổi trở lên uống 4 viên/ngày và lẽ dĩ nhiên cũng phải uống đủ liều lượng thuốc trong 10 ngày liên tiếp. Việc điều trị này sẽ giúp bệnh nhân không bị tái phát bệnh trở lại do đã tiệt căn được mầm bệnh trong cơ thể.
2. Điều trị diệt thể giao bào của P.falciparum để chống lây lan:
Primaquine không có tác dụng chống các thể của ký sinh trùng trong hồng cầu của P.falciparum như thể tư dưỡng, thể phân liệt nên không dùng trong lâm sàng để điều trị sốt rét do bị nhiễm P.falciparum. Vì vậy, sau khi sử dụng các loại thuốc chống thể trong hồng cầu của P.falciparum như Artesunate, Dihydoartemisinine-Piperaquine, Quinine ... người bệnh cần được điều trị bằng thuốc Primaquine 1 lần duy nhất với liều lượng 0,5 mg base/kg để diệt thể giao bào (Gametocyte) trong máu của bệnh nhân. Nếu không có điều kiện để cân, có thể sử dụng liều lượng theo lứa tuổi như: từ 3 đến dưới 5 tuổi uống 1 viên, từ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi uống 2 viên, từ 12 tuổi đến dưới 15 tuổi uống 3 viên và từ 15 tuổi trở lên uống 4 viên. Khi người bệnh bị muỗi Anopheles đốt thì trong máu thể giao bào đã bị diệt, không còn mầm bệnh,ký sinh trùng sốt rét không có cơ sở hoàn thành giai đoạn phát triển của trong cơ thể muỗi và muỗi không thể đảm nhận được vai trò truyền bệnh. Nếu đốt máu người lành, mầm bệnh sẽ không có ở trong cơ thể muỗi xâm nhập vào cơ thể người lành để gây bệnh và lây lan bệnh cho cộng đồng.
Các cơ sở y tế cần chú ý thực hiện theo hướng dẫn mới của Bộ Y tế là Primaquine được chỉ định sử dụng để điều trị diệt giao bào chống lây lan khi bệnh nhân bị nhiễm P.falciparum với kết quả xét nghiệm máu người bệnh có giao bào. Vì vậy việc sử dụng thuốc Primaquine cần phải có kiểm soát tốt thông qua công tác xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét của các điểm kính hiển vi đã được xây dựng và phát triển ở cơ sở.
Trong theo dõi kết quả điều trị, cán bộ y tế cũng cần quan tâm khi ghi nhận tình trạng bệnh nhân có diễn biến tốt trên lâm sàng, người bệnh không còn sốt nhưng xét nghiệm máu chỉ có giao bào (Gametocyte, ký hiệu là G) thì không phải là điều trị thất bại. Trong trường hợp này cần dùng thêm thuốc Primaquine để diệt giao bào chống lây lan.
Tóm lại, sử dụng Primaquine trong điều trị bệnh sốt rét, các cơ sở y tế cần thận trọng khi chỉ định và cần theo dõi chặt chẽ để bảo được tính hiệu quả, an toàn và hợp lý cho bệnh nhân