Vài nét về thuốc quinine và các dẫn suất
Theo tài liệu thuốc sốt rét rằng nữ bá tước vương Chinchon, vợ phó Vương quốc xứ bò tót Tây Ban Nha lúc sinh thời, sống ở Peru và mắc sốt rét đã được chữa khỏi từ phước thuốc nước sắc của một loại vỏ cây có vị đắng. Do đó, năm 1640, khi trở lại Châu Âu, bà mang theo vỏ cây này với mục đích là nhân rộng và sau đó nhờ một số thầy tu sống ở châu Mỹ Latinh học được bí quyết chữa sốt rét của người da đỏ tại đây nên đã di thực về Châu Âu vào giữa thể kỷ XVII. Bên cạnh đó, lịch sử nước Anh cũng có trường hợp vua Charle II bị mắc sốt rét đã được cứu sống nhờ thấy thuốc Robert Taylor áp dụng bài thuốc đặc hiệu mà nước thuốc chiết từ cây này; và từ thành công điều trị cho vua, ông được phong hiệp sĩ và được phép gia nhập Viện Hàn lâm y học Hoàng Gia và trở thành thầy thuốc riêng cho Hoàng Gia. Khi ông chết, bài thuốc trên được tiết lộ (sau đó người ta phân tích phương thuốc đặc biệt ra, hoá ra bên trong thành phần gồm nhiều loại nhưng chủ yếu là quinin). Đến thế kỷ XVIII- Nhà thực vật học Thuỵ Điển C. Linne, đã nghiên cứu và đặt tên cho vỏ cây này là Chinchona (gốc tên của bà bá tước Chinchon). Những nghiên cứu tiếp theo, các nhà khoa học đặt thuốc theo danh pháp y học thành quinquinna.
Thuốc chiết xuất từ vỏ cây quinquina chứa trên 20 loại alcaloide khác nhau, đáng chú ý nhất là quinine,QuinidineChinchonine chinconidine, thuốc có tác dụng diệt thể vô tính của P. falciparum, P.vivax, P. ovale, P.malariae; diệt giao bào của P.vivax và P.malariae., nhưng không có tác dụng diệt giao bào P.falciparum. Mãi đến hiện nay, đã qua gần 4 thế kỷ, song nó không hề giảm về hiệu lực điều trị sốt rét, nhất là sốt rét nặng và sốt rét ác tính do P.falciparum kháng thuốc trong các Chương trình Phòng chống sốt rét quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh những điểm mạnh của thuốc Quinine như thế, bất kể thuốc nào cũng có ít nhiều tác dụng phụ,Quinine cũng vậy- điều đó được quan tâm trong một vài báo cáo gần đây.
Theo tin tập san về phản ứng có hại của thuốc của Úc (Australian ADR Bulletin), một hội nghị về dược mới đây trình bày trên 500 báo cáo về phản ứng có hại của Quinine. Trong số đó 198 trường hợp đề cập đến tình trạng giảm tiểu cầu và bốn trường hợp đã tử vong; Qua theo dõi 20 ca dùng quinine từ đầu năm 2000 để điều trị vọp bẻ cho thấy phản ứng phụ thường xảy ra trong vòng 3 tuần sau khi dùng thuốc, 2 trường hợp xuất hiện triệu chứng sớm với liều đầu tiên. 15/20 trường hợp có số lượng bạch cầu nằm trong khong [ 0 -14 x109/lít], bệnh nhân buộc phải nhập viện điều trị bằng truyền tiểu cầu, corticoide và immunoglobuline. Và rất đặc biệt, 5 trường hợp trong số bệnh nhân trên có test kháng thể kháng quinine dương tính. Mặc dù kết quả cho thấy quinine có thể ngăn ngừa 1-2 con vọp bẻ/ tuần, nhưng không làm giảm khong thời gian và độ nghiêm trọng cơn chuột rút. Hiện tại, Australia đã chống chỉ định mọi chế phẩm chứa quinine để điều trị chuột rút vì thiếu bằng chứng về hiệu lực của thuốc này.
Minh hoạ một trường hợp bệnh nhân nữ, 25 tuổi uống quinine để điều trị các cn vọp bẻ ban đêm (crampe), liều dùng 2 viên/ tuần, trong vòng 2 tháng. Bệnh nhân xuất hiện ban xuất huyết và lượng tiểu cầu chỉ còn 5 x 109/lít. Ngừng ngay thuốc Quinine, bệnh nhân nhập viện điều trị bằng prednisolone và immunoglobulin. Sau một tuần, mức tiểu cầu trở về bình thường và ổn định, phản ứng kháng thể kháng tiểu cầu do quinine dương tính.
Như trong trường hợp này, giảm tiểu cầu do quinine thường hồi phục sau khi ngừng quinine, nhưng phải có trợ giúp qua truyền tiểu cầu, corticoides hoặc immunoglobuline. Vì cơ chế giảm tiểu cầu là cơ chế phức hợp miễn dịch, nên bệnh nhân cần tránh dùng mọi chế phẩm có chứa Quinine, kể cơ các loại nước uống (beverages) chứa một lượng thấp quinine để làm thuốc bổ hoặc để điều trị chứng chán ăn (anorexia) (do vị đắng của vỏ cây thuốc quiquinna kích thích ăn ngon miệng), và bác sĩ cần cân nhắc lợi ích và nguy cơ (risk- effectiveness) trước khi kê đơn Quinine để điều trị vọp bẻ ban đêm; Đồng thời, bác sĩ nên tìm các nguyên nhân khác gây chuột rút (ví dụ mất muối (nhất là mùa nóng), rối loạn điện giải, rối loạn thần kinh ngoại biên, bệnh neurone vận động.
Với phương diện dùng Quinine điều trị sốt rét theo liều lượng và thời gian như hướng dẫn của Chương trình Phòng chống sốt rét quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng hiện tại, nhất là trong trường hợp sốt rét nặng và có biến chứng (có biến chứng xuất huyết tiêu hoá chẳng hạn), liệu việc sử dụng chúng có nên chăng? Hay những nhà lâm sàng phải thay đổi thuốc chống sốt rét khác- Điều đó cần có suy nghĩ và nghiên cứu chi tiết để có một hướng chỉ đạo và đưa ra quyết định (decision-making) và chỉ định rõ ràng (nhất là những nơi không có thiết bị xét nghiệm hiện đại và test miễn dịch phát hiện kháng thể chống tiểu cầu ở người dùng Quinin), nhằm mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất.